TRỊNH CÔNG SƠN

fruit NHO

Active Member
Từ độ chim thiêng hót lời bạc mệnh

Hà Vũ Trọng

" Tôi không thể phân biệt được nước mắt với âm nhạc " (Nietzsche). Ai không tức khắc ngộ ra điều ấy thì là chưa hề thân thiết với nhạc. Mọi âm nhạc đích thực đều xuất phát từ cái khóc nảy sinh từ niềm nuối tiếc thiên đàng.
E.M. Cioran


Thí dụ bây giờ tôi phải đi. Tay chia li cùng đời sống này. Có chiều hôm đưa chân tôi về biên giới mới, Nghe ra quanh tôi đêm dài... là một thí dụ đến đau lòng của người nhạc sĩ đã từng ôm đàn " hát nói " như vậy khi còn giữa chúng ta. Cuộc chia li đầy luyến tiếc khỏi cõi tạm này chắc không phải là một ngẫu nhiên khi người nhạc sĩ ấy đã nặng tình với cuộc đời này. Kìa còn biết bao người dìu dặt đến quanh đây. Trong đám người dìu dặt ấy có chúng ta đến bên anh để hát trên cùng một cõi đi về, mà bây giờ biển sóng đã xô anh sang tới bờ bên kia rồi...
Sự ra đi của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn chắc làm xúc động biết bao người, nhạc của anh trong suốt hơn 30 năm bể dâu qua đã trở thành xương thịt hay một phần đời của mỗi người, và trong đó còn chứa đựng vong linh oan khuất của cả một thời chiến tranh. Nhạc và hình tượng thơ của anh luôn chừa lại khoảng trống cho trí tưởng tượng của người hát, gợi cho chúng ta biết cách mơ và linh cảm theo cách riêng của mỗi người khi đứng trước những nỗi tuyệt vọng của cuộc đời. Trên mỗi thân người có nghìn phím tơ. Búng ngón tay đàn thức dậy ước mơ... Chúng ta làm sao trả nợ đối với những tặng phẩm của người nhạc sĩ ấy ?

Để cảm nhận cái đẹp trong nhạc của Trịnh Công Sơn cần có sự linh cảm nhậy bén và một số kiến thức nhất định. Và sự cảm nhận này có thể hơi khác biệt theo từng thế hệ thuộc ba thời điểm : trước 75, lớn lên sau 75 và của lứa tuổi sinh sau 75. Riêng cá nhân tôi và phần lớn bạn bè thuộc thế hệ thứ hai - gạch nối giữa hai " triều đại " - cũng đều chịu sự ảnh hưởng nặng hoặc có thể nói là có thời điểm bị ám ảnh bởi nhạc và lời thơ của Trịnh Công Sơn tựa như là một thứ " đạo sống ". Các tình khúc Trịnh Công Sơn đối với chúng tôi là những bài kinh tình yêu, các chủ đề thân phận quê hương và thần thoại là một loại phúc âm buồn tái hiện cuộc chiến đã qua để chiêm nghiệm lại, mà bản thân tôi thời điểm ấy còn là trẻ con chưa lớn để thấy quê hương. Và từ nhạc Trịnh Công Sơn như thể từ đó đã hình thành một thứ " đạo bạn bè " và là dấu hiệu để kết bạn chia sẻ đối với bất cứ ai thích " nhạc Trịnh ". Từ buổi con người sống quá rẻ rúng tôi biết rằng vinh quang chỉ là điều dối trá... Chính trong thời mà Người vinh quang mơ ước địa đàng. Người gian nan mơ ước bình thường đó, chúng tôi hát " nhạc Trịnh " ở những chốn riêng tư gần như bất khả xâm phạm. Hát lên cái " tôi " riêng của Trịnh để cứu rỗi cái " ta " bị tập thể hoá thành đồng ca của dòng ca khúc " cách mạng " hồ hởi bên ngoài. Chủ thể luôn luôn là " tôi " trong nhạc của Trịnh Công Sơn là raison d'être (lí do tồn tại) chỉ cách cho chúng ta trực diện sống với nỗi cô đơn của chính mình. Ngay cả khi nói tới cái " ta " cũng là cái tôi tuy mong manh nhưng phơi phới. Đời ta có khi là lá cỏ ngồi hát ca rất tự do... hoặc Đôi khi ta lắng nghe ta... Tôi chưa hề quên cái hiệu lệnh muôn đời : " Cái ta đáng ghét ". Tuy nhiên trong cuộc sống thường nhật nơi đây, ngoài những ngày hét la to đầy nộ khí, vẫn có những giây phút lui về muốn thở than. Phải chăng thở than cũng là niềm bí ẩn của con người.

" Trên cánh đồng ca khúc, tôi như đứa bé ước mơ mặt trời là con diều giấy thả chơi ". Ra đồng giữa ngọ đứa bé với cuộn dây vừa mở chân thoắt như chim. Chúng ta ai cũng từng thả những con diều thơ cánh nhạc tung tăng ước mơ ấy lên bầu trời mênh mông rạng ngời tìm lại địa đàng đã mất dấu, thế nhưng sợi dây vẫn bắt nguồn từ mặt đất của cõi người hệ luỵ. Con diều như là biểu tượng nhớ thương tìm về tuổi thơ hướng vọng lên trời cao, thả tìm lại trí tưởng tượng mà chiến tranh đã làm cạn kiệt tinh thể của chúng ta.

Ở hải ngoại, những sáng tác của Trịnh Công Sơn trước 75 và một số ca khúc về người Việt ở ngoài sau 75 cũng vẫn nhập tâm chúng ta hơn cả. Nhiều bài như đã tiên tri cho thân phận chim xa lìa bầy và tâm trạng " lưu vong " của chúng ta từ cảm thức lưu vong của anh trên chính quê hương mình hay đúng hơn là " trong cõi người ta " này... Rồi một lần kia khăn gói đi xa, tưởng rằng được quên thương nhớ nơi quê nhà... Có khi anh cũng trách móc những bạn bè khăn gói đi xa ấy. Người ra đi có đôi dòng lệ, cỏ xanh rì cỏ mướt chân đi. Miệng môi kia ốm o lời thề, chân đi xa trái tim bên nhà... Chúng ta đã chứng kiến nhạc và bản thân Trịnh Công Sơn cũng như ca sĩ Khánh Ly có thời kì trở thành mục tiêu kết án của phía cực hữu, giờ đã là một vết nhục đối với họ khi đứng trước những tác phẩm đã được coi là lương tâm không thể phủ nhận của Việt Nam trong thời khổ nạn. Ca khúc da vàng đã nhập thể vào tiếng hát Khánh Ly chính là những bài Kinh cầu từ Vực sâu (De Pro-fundis) trầm thống đến rợn người. Bức tranh đêm dài trên quê hương được thắp sáng bằng hoả châu cháy đỏ, bài hát ru mới là tiếng đại bác nghe quen, người già co ro, người điên, em bé loã lồ, chó sủa vườn hoang, bom rung từng liếp cửa, em bé đi học đạp trái mìn nổ chậm ngực vỡ tan tành, xác người trôi sông, hầm trú tan hoang, từng vùng thịt xương có mẹ có con... những hình ảnh đổ nát hỗn độn đó tạo thành bức tranh tang thương Guernica khổng lồ một nước Việt Nam ngập trong khói lửa triền miên đến độ siêu thực. Một ngày mùa đông, hai bên là rừng, một chiếc xe tang, trái mìn nổ chậm, người chết hai lần, thịt da nát tan. Những bài Gia tài của mẹ, Nối vòng tay lớn, Tình ca người mất trí... đã xoá lằn ranh phân tranh của hai ý hệ và địa lí đã chia cắt thân thể Mẹ Việt Nam.

Hình tượng và cách gọi thân phận người nô lệ da vàng phải chăng là sự đồng cảm của Trịnh Công Sơn với thân phận người nô lệ da đen trong thể nhạc blues, jazz mà ông rất yêu thích và chịu ảnh hưởng ? Cũng tương tự như lời nhạc blues đã trở thành văn học bằng chất thơ độc đáo mà tiếng nói đặc thù cá nhân nói thay cho bao người da đen bị đẩy vào cảnh sống khốn cùng, lời thơ trong nhạc của Trịnh Công Sơn cũng đã trở thành văn học (còn phải kể thêm yếu tố hoạ mà Trịnh Công Sơn luôn " vẽ " trong thơ). Ca khúc của Trịnh Công Sơn - nhiều bài là những folksong hiện đại và chất liệu dân ca Việt Nam (như các thể hát nói, chầu văn Huế, hát ru...) được sử dụng nhuần nhuyễn tới độ vô thức khiến người nghe khó có thể nhận ra. Đây là điểm cao nghệ thuật cần những người chuyên về nhạc phân tích vì nó vượt xa và khác hẳn các ca khúc dựa vào dân ca thời tân nhạc hoặc các bài dân ca " cải biên " về sau. Cho đến nay, kể tất cả những ca khúc đã phát hành của Trịnh Công Sơn, những bài đạt đến đỉnh cao nghệ thuật của anh (thời kì 72 -75) về nhạc và thơ đã tạo ra một loại thiền và " mĩ học " riêng từ sự trầm tư trước cái chết và nỗi bất an thường trực. Tác phẩm lớn nhất có thể kể tổ khúc (hay liên ca khúc) Đoá hoa vô thường. Cấu trúc " giao hưởng thơ " của bài ca khúc nghệ thuật này dài và phức tạp hơn cả so với mọi tác phẩm khác của Trịnh Công Sơn. Cách chuyển giọng và điệu rất tinh tế mỗi khi sang một " chương " khác. Nhiều chỗ chừa thoáng cho nhạc cụ tự " hát ". Giọng người hát đòi hỏi mang nhiều sắc thái hơn, và phần hoà âm thích hợp cũng cần tới nhạc khí thính phòng. Có thể vì vậy nên khó ai có thể diễn tả trọn vẹn được tác phẩm này ?
 

fruit NHO

Active Member
Sự thịnh hành (hay " phục hồi ") trở lại các tình khúc chủ yếu sáng tác trước 75 của Trịnh Công Sơn đối với giới trẻ Việt Nam sau thời mở cửa hiện nay và đối với đồng bào miền Bắc đang lên đến đỉnh cao, rõ ràng là sự phải trả lại cho tuổi trẻ những gì từng bị coi là trái cấm. Tuy nhiên những Tình khúc Da Vàng (hay Kinh Việt Nam) - những bài kinh thương khó của Việt Nam Tiếng oan những muốn vạch trời kêu lên (Nguyễn Du) - những tác phẩm này vẫn còn chưa được nhìn nhận lại hoặc vẫn bị che giấu đối với tuổi trẻ hiện nay, người ta sợ phơi mở sự thật về cuộc chiến vừa qua, bởi mỗi Tình khúc Da Vàng này là tấm gương phản chiếu vận mệnh quê hương qua những thị kiến và linh cảm của một người nghệ sĩ đứng ngoài hai lằn ranh ý hệ để nói lên nỗi thống khổ chung và ước mơ hoà bình của dân tộc, trong nỗi tuyệt vọng sống từng ngày chết từng ngày đợi con kên kên trên cành nhỏ lệ. Hãy sống dùm tôi, hãy nói dùm tôi, hãy thở dùm tôi... Trịnh Công Sơn nói rằng Tất cả những gì thuộc về cuộc sống đều có ảnh hưởng trên đời sống tinh thần và tình cảm của tôi... Quá khứ hiện tại tương lai trong tôi chỉ là một. Nếu có gì khác biệt thì đó là trạng thái tinh thần của từng giai đoạn và sự thay đổi trong những diễn biến tình cảm. Người ta không thể cắt rời quá khứ ra khỏi với hiện tại như một thân thể bị chia lìa. Nếu như vậy, thì những giọt máu của hai triệu người oan khuất biết đến bao giờ trổ bông. Khi được hỏi về sự tài hoa và chiêm nghiệm về chính mình qua hai câu thơ tài mệnh tương đố của Nguyễn Du, anh đáp : tôi muốn viết sai câu thơ Nguyễn Du cho riêng mình : " Trăm năm trong cõi người ta, chữ tài chữ mệnh cũng là bể dâu ". Như vậy, tài mệnh của Trịnh Công Sơn đã trở thành một với sử mệnh của dân tộc Việt Nam trong thời khổ nạn. Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung (Nguyễn Du).

Tôi chỉ là tên hát rong đi qua miền đất này để hát lên những linh cảm của mình về những giấc mơ đời hư ảo. Nhưng trong những giấc mơ đời hư ảo ấy, những giọt lệ là có thật từ độ chim thiêng hót lời bạc mệnh, từng giọt vô biên, trôi chìm tiếng tăm... Ta có thể mượn lời Cioran để nói về cái hư ảo ấy trong nhạc Trịnh Công Sơn : " Âm nhạc là cái hư ảo chuộc lại cho tất cả những cái hư ảo khác ".

Toronto, 4.4.2001
Hà Vũ Trọng
 

fruit NHO

Active Member
Ai có quyền khai thác kỷ vật của Trịnh Công Sơn?


Sinh thời, người nhạc sĩ tài hoa này không mấy quan tâm đến việc làm ăn, kinh doanh, lại là người độc thân không có vợ con, khi ông qua đời, việc quản lý tài sản nhất là các tác phẩm của ông đang là vấn đề được người hâm mộ quan tâm. Sài Gòn tiếp thị có cuộc trao đổi với các em của nhạc sĩ về việc này.

- Chúng tôi nghe nói ông Phạm Phú Ngọc Trai, Tổng Giám đốc Pepsi Việt Nam có xin ý kiến gia đình để làm một điều gì đó bày tỏ tấm lòng yêu mến Trịnh Công Sơn, có thể sẽ xây dựng một nhà lưu niệm về ông. Điều đó có đúng không?

- Trịnh Quang Hà: Anh Trai có đề nghị việc đó, nhưng chúng tôi chưa có quyết định dứt khoát về việc này.

- Trịnh Xuân Tịnh: Gia đình và bạn bè đều muốn làm điều gì đó cho anh Sơn nhưng chúng tôi chỉ tập trung lo cho vòng 49 ngày của anh thôi.

- Một trong những kỷ vật được được đánh giá đặc biệt là bức tranh họa sĩ Bùi Xuân Phái vẽ Trịnh Công Sơn. Hiện nay gia đình có mấy bức vẽ?

Trịnh Xuân Tịnh: Hiện nay chỉ còn lại ba bức. Bùi Xuân Phái vẽ anh Sơn rất nhiều. Lúc ra Hà Nội, khi đang ngồi đàn hát với một cô gái, Bùi Xuân Phái đã vẽ cả một xấp tranh về anh Sơn, nhưng anh không để ý. Khi về Sài Gòn anh Sơn có điện thoại ra thì cô gái đó nói đã đưa cho Dương Tường (một người sưu tập tranh). Dương Tường có hứa "lúc nào toa cho moa vài cái" nhưng không thấy đâu.

- Còn tranh của Trịnh Công Sơn vẽ?

- Trịnh Xuân Tịnh: Tranh của anh đã một lần được triển lãm ở nước ngoài rồi cho em gái ở Montreal cất giữ.

- Trịnh Vĩnh Thuý: Anh em tôi giữ một số bức, có những bức đã bán. Anh Sơn vẽ tặng bạn bè cũng nhiều, có lúc vẽ xong thấy bạn thích là tặng.

- Nghe nói đã có người bạn nào đó tặng lại những kỷ vật của anh Sơn cho nhà lưu niệm Trịnh Công Sơn?

- Trịnh Xuân Tịnh: Có một số thứ vừa rồi anh Dương Minh Long công bố trên báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật, nhưng đó là ảnh của gia đình.

- Trịnh Vĩnh Thuý: Khi đọc tờ báo đó, gia đình tôi rất ngạc nhiên không hiểu vì sao anh Long lại có những hình ảnh đó.

- Có lẽ vì Trịnh Công Sơn là một người dễ tính và anh đã đem cho bạn bè?

- Trịnh Xuân Tịnh: Không! Không. Anh Sơn tôi chưa bao giờ ai xin mà cho cả. Tôi theo anh từ nhỏ, tôi biết. Anh ấy có thể cho người khác cái mới còn cái gì đã dùng thì không.

- Trịnh Vĩnh Thuý: Tranh ảnh anh Sơn cứ để đấy, bạn bè tới chơi ai muốn cầm là có thể cầm.

- Trịnh Xuân Tịnh: Dương Minh Long có thời gian ở lại đây, rất thân thiết. Gia đình coi như em út trong nhà. Có thể đó là những hình ảnh anh Sơn tôi đưa để nhờ làm một việc gì đó. Nếu giờ anh Long không dùng nữa thì nên trao lại cho gia đình tôi.

- Nghe nói có rất nhiều bài viết của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có liên quan đến nhiều kỷ niệm với nhiều người?

- Trịnh Xuân Tịnh: Anh Sơn tôi có cách làm việc lộn xộn, nhưng đó cũng chính là trật tự của anh. Hồi mẹ chúng tôi chưa mất, bà cụ không cho ai đụng vào cái trật tự ấy. Có những tác phẩm anh viết dở, đến 5, 7 năm sau ngồi nhớ lại mới viết xong. Anh nói, nhiều khi ngồi nhìn những kỷ vật mà nhớ lại những kỷ niệm của 15, 20 năm.

- Trịnh Công Sơn có để lại điều gì như là một di chúc cho gia đình không?

Trịnh Xuân Tịnh: Không, nhưng trong cách sống có thể hiện một ý nguyện mà cả gia đình đều biết. Gia đình tôi có 8 anh em, 7 người ở nước ngoài, nhiều năm nay tôi và Trịnh Vĩnh Tâm, Trịnh Hồng Diệu thường xuyên ở đây, còn Ngân và Thuý thì năm nào cũng về.

- Còn ngôi nhà ở phố Phạm Ngọc Thạch, ý nguyện của anh Sơn thế nào?

- Trịnh Xuân Tịnh: Anh tôi đã biết đó là nhà thờ họ Trịnh nên không bao giờ có ý định bán.

- Trịnh Vĩnh Ngân: Anh ấy muốn sau khi mất, mọi sự vẫn như cũ, anh em, bạn bè vẫn tụ họp về đây.

- Có người đồn rằng căn nhà này anh Sơn đã từng di chúc cho cô cháu gái tên là Tib, sau đó lại chuyển sang cho người khác?

- Trịnh Vĩnh Thuý: Tôi nghĩ là người ta thêu dệt ra. Với Tib đôi khi anh Sơn có nói vui như vậy, còn thực tình thì không.

- Trước đây anh Sơn đã nhờ một công ty luật ở Mỹ xử lý vấn đề tác quyền? Điều đó có đúng không?

- Trịnh Xuân Tịnh: Có, lúc đầu là công ty ở Canada, sau đó anh có quen một luật sư ở Cali, anh Trương Hữu Hòa. Chính anh Hòa đã đề nghị anh Sơn vì thấy nhiều người dùng nhạc của anh tôi được rất nhiều tiền mà người sáng tác ra nó thì không được gì cả. Họ nói họ sẽ đòi tác quyền mà không lấy tiền phí tổn cho anh Sơn. Anh tôi có viết giấy "tác quyền trả cho tôi thông qua luật sư Trương Hữu Hòa". Họ có làm, có đặt vấn đề cả với Khánh Ly. Họ nói Khánh Ly là một người yêu mến Trịnh Công Sơn nên hãy để cô ấy thực hiện trước. Nhưng theo tôi biết thì đến nay vẫn chưa thu được kết quả gì.

- Tình yêu của Trịnh Công Sơn cũng được người hâm mộ rất quan tâm. Theo các anh, chị có thể có một người phụ nữ đặc biệt nào đó trong đời anh sẽ xuất hiện không?

- Trịnh Xuân Tịnh: Cái đó thì gia đình chưa biết chắc chắn. Người nào anh Sơn quen biết, gia đình cũng biết, bạn bè cũng biết. Anh tôi không sống khăng khít với một phụ nữ nào cả.

- Trong đám tang nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, có một cô gái xinh đẹp, không phải là người trong gia đình để tang?

- Trịnh Xuân Tịnh: Đó là cô Hoàng Anh. Lúc đầu, cô ấy xin để tang, tôi nói với bà xã là không được, nhưng em tôi, cô Ngân nói đó là một người yêu mến anh Sơn thì cứ cho họ để tang, anh làm gì mà khó vậy. Tôi không phải khó, chỉ sợ người ta hiểu lầm. Các em tôi lại nói có gì mà sợ hiểu lầm.

- Quan hệ giữa Hoàng Anh và Trịnh Công Sơn có phải là một quan hệ đặc biệt?

- Trịnh Xuân Tịnh: Tôi nghĩ đó cũng là mối quan hệ tình cảm của anh Sơn giống như đối với Hồng Nhung thôi, một thứ tình cảm nhẹ nhàng.

- Trịnh Vĩnh Ngân: Hoàng Anh là một người yêu mến anh Sơn, yêu lắm. Anh Sơn cũng rất quý cô ấy, bởi vì Hoàng Anh khác với những cô gái trẻ khác, có tâm hồn và biết tâm sự, hiểu ý người khác.

- Trong thâm tâm, các anh chị có muốn anh Sơn có một người phụ nữ nào đó thực sự là của riêng anh không?

- Trịnh Vĩnh Ngân: Anh Sơn đôi khi nói vui với tôi, anh muốn lấy vợ, nhưng anh sống một mình quen rồi, giờ lấy lại có một người phụ nữ luôn ở bên thì ngại. Ở nhà mẹ, nhà các em khi đi uống rượu còn ngại nữa là ở với vợ. Rồi lại bị cằn nhằn như vợ của bạn bè thôi.

- Trịnh Xuân Tịnh: Anh Sơn có nói một người con trai mà không lấy vợ là bất hiếu. Khi mẹ tôi còn sống, anh đã có ý định đó, nhưng từ khi bà cụ mất thì những ý nghĩ đó không còn.

- Có mấy lần anh ấy định lấy vợ?

- Trịnh Vĩnh Ngân: Anh Sơn tôi là một người rất đặc biệt. Có mấy lần đã làm đám hỏi, may áo, mua nhẫn, chỉ còn mấy ngày nữa thì cưới, đột nhiên anh nói với người bạn gái: "Bao nhiêu lỗi, anh xin nhận hết, nhưng anh thấy chỉ có tình bạn là đẹp nhất. Tình bạn không tan còn tình yêu dễ tan. Vậy anh muốn giữ tình bạn cho lâu bền".

- Liệu có phải còn một lý do nữa là vì bạn bè và những người thân không muốn ai đó chiếm giữ anh?

- Trịnh Vĩnh Ngân: Tôi kể cho anh nghe chuyện này nhé: Trong nhà, má và các em thấy anh định lấy vợ thì mừng lắm. Nhưng sau lần lấy vợ hụt lại thấy anh nhận được thư của một vài người bạn gái ở nước ngoài gửi về nói là họ rất mừng vì anh đã nghĩ lại, họ không muốn anh là của riêng ai hết. Đọc thư đó, anh Sơn và cả nhà đều cười.

- Xin cảm ơn các anh chị!


(Theo Sài Gòn Tiếp Thị).
 

fruit NHO

Active Member
Nhạc sĩ, nhà thơ, nhà tiên tri đã ra đi

Nguyễn Xuân Hoàng
Việt Mercury


Nghe nhạc của Trịnh Công Sơn không phải chỉ là nghe những lời tình tự, mặc dù những người yêu nhau không ngớt lấy âm nhạc của anh làm kỷ niệm cho tình yêu của mình.

Không đơn giản là những khúc tình ca, nhạc của Trịnh Công Sơn mang đến cho người nghe sự đau xót và nhức nhối của một thân phận làm người. Đó là những lời kinh cầu, những tiếng thì thầm cất lên từ một nỗi đau của cả một thế hệ, cả một dân tộc, cả một loài người.

Người ta nói âm nhạc và hội họa là hai loại hình nghệ thuật mang tính quốc tế. Nó đi thẳng từ một trái tim đến một trái tim. Nhận xét đó đúng, nhưng không phải ca khúc nào, bức tranh nào cũng làm được công việc đó - như Trịnh Công Sơn. Không phải họa sĩ nào cũng là Chagall và van Gogh, không phải nhạc sĩ nào cũng là Chopin và Mozart. Tất nhiên. Những ca khúc của Trịnh Công Sơn đã không nhờ một trung gian nào khác. Tự nó, âm nhạc của anh có khả năng gõ được các cánh cửa của mọi trái tim, là chìa khóa giải mã mọi ngôn ngữ. Người ta thường so sánh Trịnh Công Sơn và Bob Dylan, vì tính phản chiến ở lời từ chứa trong các ca khúc của hai tác giả này. Nhưng theo tôi âm nhạc của anh cao hơn sự so sánh đó. Nó vượt qua “phản chiến,” nó nhìn thấu suốt được kiếp nhân sinh. Nó không ngừng ở chỗ những lời tình tự giữa hai người nam và nữ. Âm nhạc Trịnh Công Sơn phát lên tín hiệu của những người cùng thế hệ với anh, thế hệ lớn lên trong một cuộc chiến nhưng đồng thời âm nhạc anh không có tuổi. Chính là những lời từ như thơ trong âm nhạc anh trở thành những lời kinh cầu của kiếp người. Thượng đế của nó, nếu muốn gọi như thế, đó là con người.

Người ta không ngạc nhiên khi nghiệm ra lời từ trong các ca khúc của anh đẹp đẽ mà rời rạc, chữ này không dính chữ kia, câu này không dính câu nọ, ý trên rất xa ý dưới, mông lung và mơ hồ. Đừng đi tìm sợi xích thuần lý trong lời nhạc của anh. Hãy thưởng thức ca khúc anh trong một tổng thể. Ở mỗi ca khúc của anh người ta cảm nhận một tuyên ngôn. Ở mỗi lời từ là một tiếng kêu ngạc nhiên bất ngờ trên mặt đất.

Trịnh Công Sơn là một thi sĩ.

Vâng, anh đích thị là một nhà thơ viết nhạc.

Người làm thơ giống như người đi trong rừng. Phải phạt cỏ mà đi. Phải phạt cây mà bước. Thơ của thi sĩ Trịnh Công Sơn đã mang cho âm nhạc Trịnh Công Sơn sức quyến rũ kỳ lạ.

Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi

Để một mai tôi về làm cát bụi.

Ôi cát bụi tuyệt vời

Ôi cát bụi mệt nhoài

Con người là cát bụi và sẽ trở về cát bụi. Cái ý đó không lạ, nhưng khi Trịnh Công Sơn đưa vào âm nhạc anh bằng những câu như sự “tuyệt vời mệt mỏi,” như “mặt trời soi một kiếp rong chơi,” ... Trịnh Công Sơn đã bước qua cái chân lý thường hằng quen thuộc: cát bụi trở về với cát bụi. Trái đất này “mỏi ngóng tin vui từng ngày” bởi vì từng ngày chúng ta chỉ có tin buồn. Nỗi đau tuyệt vời ấy chính là nỗi đau làm người.

Tôi như trẻ nhỏ ngồi bên hiên nhà chờ xem thế kỷ tàn phai

Tôi như trẻ nhỏ tìm nơi nương tựa mà sao vẫn cứ lạc loài…

Đừng nghe tôi nói lời tăm tối

Đừng tin tôi nhé vì tiếng cười.

Trong bộ tiểu thuyết ba tập Người Đi Trên Mây của tôi, Trịnh Công Sơn đã có mặt dưới một tên khác, nhưng tôi biết không người đọc nào không nhận ra nhân vật ấy là anh.

Ngợi ca anh hay khó chịu anh, yêu mến anh hay chống đối anh, muốn gần gũi anh hay muốn xa lánh anh... mỗi người đều có lý do để biện minh cho mình. Nhưng không ai có thể phủ nhận tài hoa và sức quyến rũ của âm nhạc anh.

Trịnh Công Sơn là nghệ sĩ có một sức thu hút và đồng thời một lực ly tâm mạnh mẽ kỳ lạ.

Xin chia tay anh, Trịnh Công Sơn. Chúng tôi nhớ anh.


Nguyễn Xuân Hoàng


ANGELIQUE
 

fruit NHO

Active Member
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là người rất có duyên với người đẹp...

Báo Người Đẹp

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là người rất có duyên với người đẹp. Ông yêu cái đẹp và đã nhiều lần được ban tổ chức các cuộc thi hoa hậu mời làm giám khảo. Nhà thơ Dương Kỳ Anh đã kể lại những kỷ niệm cùng chấm thi với nhạc sĩ tài hoa này:

Cuộc thi Hoa hậu toàn quốc năm 1990, Á hậu Trần Vân Anh là người mà Sơn "mê" luôn từ cái nhìn đầu tiên. Nghe nói về sau, nhạc sĩ có một thời gian rất "mật thiết" với người đẹp họ Trần.

Đến cuộc thi Hoa hậu toàn quốc năm 1992, suốt thời gian ngồi ghế giám khảo, tôi luôn "bám sát" nhạc sĩ họ Trịnh. Mạc Lê Đan Thanh, cô gái xứ Quảng vừa xuất hiện, Trịnh Công Sơn cũng "mê" luôn. Đan Thanh có thân hình mảnh mai, giọng nói nhẹ và êm, đôi mắt xa xăm. Cô đi lại trên sân khấu, chân như không bén sàn diễn. Thanh thoát, trả lời rất thông minh, cô gái họ Mạc quả thật có sức quyến rũ lạ lùng, đẹp như một bài thơ. Tuy nhiên, cô khó có thể được chọn làm hoa hậu bởi điểm nhân trắc học của cô kém xa Hà Kiều Anh. Tôi lo Trịnh Công Sơn vì quá "mê" mà cho điểm cao chăng? Nhưng thật bất ngờ khi nhìn sang phiếu chấm thấy anh cho điểm thật khách quan. Tôi chợt nhận ra một điều: Những tài năng lớn bao giờ cũng công bằng, khách quan và nghiêm túc trong công việc. Sơn cân nhắc rất thận trọng và chi li, tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn mà ban tổ chức đưa ra.

Nhưng điều đặc biệt nơi Sơn khiến tôi trân trọng là sự cầu thị. Ông luôn biết phải làm gì vào những lúc cần thiết. Ở cuộc thi Người đẹp miền Đông Nam Bộ và TP HCM, Trịnh Công Sơn đã uống rượu cùng Giáo sư Hoàng Thiệu Khang. Sau khi uống xong, Sơn coi như không có chuyện gì xảy ra. Chừng ấy chất men đối với ông chưa có nghĩa lý gì. Riêng Giáo sư Khang có vẻ ngà ngà. Khi ban thư ký cộng điểm, trưởng ban mới hốt hoảng: "Chết rồi, phiếu của Giáo sư Hoàng Thiệu Khang chưa có điểm". Chắc hẳn trong thời gian chấm, ông đã ngồi lơ mơ.

Công việc của tổ thư ký vì thế mà rối lên như canh hẹ vì đã đến lúc họ phải công bố kết quả vào vòng trong. Tình huống này chưa bao giờ xảy ra nên ban tổ chức rất lúng túng. 10 phút, 15, rồi 20 phút trôi qua, khán giả đã bắt đầu ồn ào sốt ruột. Và lúc ấy, Trịnh Công Sơn đã thể hiện tài năng của mình. Ông lấy cây đàn guitar bước lên sân khấu, hát say sưa, hết bài này đến bài khác, khán giả vỗ tay rào rào. Ông tự tung tự tác phải đến 20 phút, rồi các phiếu điểm cũng hoàn thành, các cô gái cũng được lựa chọn cho vòng sau. Không ai trong số khán giả biết rằng Trịnh Công Sơn đã "chữa cháy" cho một sự cố làm toát mồ hôi hột của ban giám khảo.


(Theo Người Đẹp)





Phát hành sách về Trịnh Công Sơn


Báo Lao Động

"Trịnh Công Sơn - một người thơ ca, một cõi đi về” là tập sách dày trên 500 trang, do NXB Âm nhạc phối hợp hợp với Trung tâm Ngôn ngữ Văn hoá Đông Tây ấn hành. Đây được coi là nén hương tưởng niệm 49 ngày mất của nhạc sĩ họ Trịnh.

Cuốn sách được chia làm 4 phần: Phần 1 - “Một người thơ ca” bao gồm 26 bài viết về Trịnh Công Sơn trước khi ông mất. Phần 2 - “Phác thảo chân dung tôi” cũng gồm 26 bài viết, lời bàn của chính Trịnh Công Sơn về cuộc đời và nghệ thuật. Phần 3 - “Biết đâu nguồn cội”, là một sự ngụ ý 63 năm “sống trên đời sống” với 63 bài thơ rút từ các ca khúc của ca sĩ họ Trịnh. Phần 4 - “Một cõi đi về” gồm 55 bài viết của báo giới và bạn bè thân hữu tưởng nhớ ông. Giá sách là 63 nghìn đồng. Biết đâu cũng là một sự ngụ ý?

(Theo Lao Động)

-------------------------------------------------------------------------------------

Đời và Nhạc TRỊNH CÔNG SƠN

Đặng Tiến (Orléans, 14.04.2001)

Chú thích cho bài dưới :
1 Trịnh Công Sơn, Nhạc và Đời, nxb Tổng Hợp Hậu Giang
2 Đất Việt, Canada tháng 6, 1986
(Thật ra bài ướt Mi, làm năm 1958, nxb An Phú, in 1959)
3 Văn Cao, Lời Bạt cho tập nhạc Trịnh Công Sơn Em Còn Nhớ hay Em đã Quên, nxb Trẻ, TPHCM, 1991, tr. 115
4 Phạm Duy, Hồi Ký Thời Phân Chia Quốc Cộng, nxb Phạm Duy Cường, California, 1991, tr. 287
5 Đất Việt, Canada tháng 6,1986
6 Văn Cao, Lời Bạt cho tập nhạc Trịnh Công Sơn Em Còn Nhớ hay Em đã Quên, nxb Trẻ, TPHCM, 1991
7 Văn Cao, Lời Bạt cho tập nhạc Trịnh Công Sơn Em Còn Nhớ hay Em đã Quên, nxb Trẻ,, TPHCM, 1991.
8 Nguyễn Duy, trong Tôi Thích Làm Vua, nxb Văn Nghệ, TPHCM, 1987
9 Nguyễn văn Thọ, Nhớ Trịnh Công Sơn, Nước Đức, ngày 4.4.2001
10 Chế Lan Viên, Văn hoá thực dân mới chết hay chưa chết, trong "Ngoại Vi Thơ", tr. 121, nxb Thuận Hoá, Huế, 1987.
http://zdfree.free.fr/diendan/archuni/u107dtien.html
 

fruit NHO

Active Member
Trịnh Công Sơn chánh quán Huế, làng Minh Hương, tổ tiên gốc Trung Hoa. Làng Minh Hương nay sát nhập vào Bao Vinh thành xã Hương Vinh. Bao Vinh là thương cảng của Huế ngày xưa.

Anh sinh ngày 28 tháng 2 năm 1939, tại Lạc Giao, tỉnh Đắc Lắc, lớn lên trong một gia đình buôn bán giữa trung tâm thành phố Huế. Nhà đông anh chị em, ba trai năm gái, mà anh là con trưởng. Tuy có thăng trầm, nhưng nói chung là khá giả.

Trịnh Công Sơn theo học chương trình Pháp, tại Trung học Pháp tại Huế, đến hết cấp 2. Năm ấy, 1955, cùng lớp có ca sĩ Kim Tước (Giáo sư Decoux, dạy khoa học, thỉnh thoảng mang đàn vĩ cầm vào lớp, đàn đệm cho học sinh hát). Lúc này Trịnh Công Sơn chơi guitare đã hay. Trường giải thể, dời vào Đà Nẵng, Trịnh Công Sơn có lúc theo học trường Thiên Hựu, Providence ở Huế. Rồi chuyển vào Sài Gòn, học tại trường Jean Jacques Rousseau. Sau đó vào học trường Sư Phạm Quy Nhơn, rồi đi dạy học vài năm tại Lâm Đồng.

Anh tự học nhạc một mình, và đã kể lại :

Thưở ấy, tôi là một đứa bé thích ca hát. Mười tuổi biết solfège, chép lại những bài hát yêu thích đóng thành tập, chơi đàn mandolin và sáo trúc. Mười hai tuổi có cây đàn guitare đầu tiên trong đời và từ đó sử dụng guitar như một phương tiện quen thuộc để đệm cho chính mình hát.

Tôi không đến với âm nhạc như một kẻ chọn nghề. Tôi nhớ mình đã viết những ca khúc đầu tiên từ những đòi hỏi tự nhiên của tình cảm thôi thúc bên trong... Đó là những năm 56 - 57, thời của những giấc mộng ngổn ngang, của những viễn tưởng phù phiếm non dại. Cái thời tuổi trẻ xanh mướt như trái quả đầu mùa ấy, tôi rất yêu âm nhạc nhưng tuyệt nhiên trong tôi không hề gợi lên cái ham muốn trở thành nhạc sĩ... Dạo ấy ba tôi đã mất ...1

Những câu hỏi người tò mò có thể đặt ra : một người chỉ học trường Pháp, giáo trình Việt ngữ rất hạn chế và lỏng lẻo, khi đặt lời ca, sao có thể sử dụng tiếng Việt điêu luyện đến như thế ? Thỉnh thoảng anh viết truyện ngắn, tham luận, đều xuất sắc. Bạn bè nhận được thư riêng, đều nhớ rằng Sơn chữ đẹp văn hay.

Tự học đàn hát, rồi sáng tác một mình, Trịnh Công Sơn không thuộc một nhóm sáng tác nào, như những người đi trước, như Lê Thương, Hoàng Quý trong nhóm Đồng Vọng ở Hải Phòng, như Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước trong nhóm Myosotis tại Hà Nội, nhóm Hoàng Mai Lưu tại Nam Bộ. Cũng như sau này, anh sẽ tự học vẽ một mình.

Câu hỏi tò mò thứ hai : tự học nhạc, rồi từ rất sớm đã lao mình vào đời sống sáng tác và tranh đấu, làm sao anh có thể liên tục sáng tác khoảng 600 ca khúc, phần lớn được yêu chuộng ?

Nói rằng Trịnh Công Sơn là thiên tài, cũng dễ thôi. Nhưng trở thành thiên tài trên một đất nước như Việt Nam, được thừa nhận là thiên tài trong một xã hội như Việt Nam - nhất là sau cuộc đổi đời 1975 - thật không đơn giản.

Mục đích của bài này là giải thích sự hình thành của thiên tài Trịnh Công Sơn, giải mã hiện tượng Trịnh Công Sơn và tìm hiểu vị trí của Trịnh Công Sơn trên những trầm luân của đất nước, chủ yếu là khúc quanh 1975.

Chúng tôi cũng muốn cung cấp cho các nhà nghiên cứu về sau một số tư liệu rải rác đây đó, e mai đây khó kiếm, khi những than khóc và tung hô đã lắng xuống.

*

Về hoàn cảnh sáng tác ban đầu, Trịnh Công Sơn đã tuyên bố với Vĩnh Xương, báo Đất Việt, năm 1985 : " Đến năm 1957, tôi sáng tác, gọi là để bạn bè nghe chơi. Sau đó thấy có hứng thú sáng tác và thử viết thêm một số bài. Năm 1959, tôi viết bài Ướt Mi và được bạn bè khích lệ. Tôi mới tìm sách nghiên cứu thêm về nhạc, trao đổi thêm về nhạc lý với bạn bè. Sau đó, tôi phổ nhạc cho khoảng một chục bài thơ tình yêu (như Nhìn Những Mùa Thu Đi chẳng hạn). Năm 63, tôi có một số sáng tác khá thành công như Diễm Xưa, Biển Nhớ, Hạ Trắng. Từ đó, tôi đi vào con đường sáng tác "2.

Và từ đó, Trịnh Công Sơn nổi tiếng.

*
Khi đặt câu hỏi : sao một thanh niên, rất trẻ, chỉ học "trường Tây" mà sử dụng tiếng Việt tài hoa đến vậy, tôi không có thành kiến - vì bản thân mình cũng chỉ học "trường Tây"- mà để tìm hiểu nguồn sáng tạo trong ngôn ngữ.

Trịnh Công Sơn, có lẽ - đây là giả thuyết dè dặt - không học nhiều văn chương Việt Nam được giảng dạy ở nhà trường thời đó, nên không bị nô lệ vào những khuôn sáo trường quy, không suy nghĩ bằng điển cố sẵn có, mà tạo được một hình thức mới cho lời ca. Lời ca ấy sử dụng nhiều hình ảnh, biểu tượng bị xé lẻ, đi thẳng vào tâm tưởng người nghe, mà không đòi hỏi họ phải hiểu nghĩa chính xác. Ví dụ bài Tình Sầu :

Tình xa như trời / Tình gần như khói mây /
Tình trầm như bóng cây / Tình reo vui trong nắng /
Tình buồn làm cơn say
... Cuộc tình lên cao vút / Như chim mỏi cánh rồi / Như chim xa lìa bầy / Như chim bỏ đường bay /
Mạch lạc nội tại (cohérence organique) của ca khúc không dựa vào tương quan ý nghĩa : "tình xa như trời" thì hợp lý, nhưng gần, sao lại như "khói mây" ? "Tình lên cao vút", sao lại "như chim mỏi cánh rồi" ? "Tình reo vui trong nắng", thì phải đối ngẫu với "tình buồn cơn mưa bay" mới chỉnh, sao lại say sưa vào đây ?
Thật ra, mạch lạc nội tại được cấu trúc trên hình thức ngôn ngữ : những từ lặp lại : tình, chim, như, những vần luyến láy : mây, cây, say, bay, những từ đối lập : xa/gần, vui/buồn. Hình ảnh nối tiếp nhau, không cần ăn khớp với lý luận, lại được tiết điệu, âm giai nâng đỡ, bay bổng, bay thẳng vào tâm tưởng người nghe.

Chúng ta thử so sánh, để tìm hiểu chứ không phân định hơn thua, một lời nhạc tương tợ của Đoàn Chuẩn-Từ Linh :

Gửi gió cho mây ngàn bay
Gửi bướm muôn màu về hoa
Gửi thêm ánh trăng màu xanh lá thư
Về đây với thu trần gian ...
Hai ca khúc na ná, vì đều là ẩn dụ xâu chuỗi (métaphore filée), nhưng câu sau của Đoàn Chuẩn và Từ Linh được cấu tứ theo ngữ nghĩa và quy ước, theo điển cố : gió+mây, bướm+hoa, gió+trăng, trăng+thu. Nét mới là màu xanh lá thư bị xoá nhoè giữa những ước lệ được liên kết thành một xâu chuỗi kiên cố, chặt chẽ quá làm mất chất thơ. Thêm vào đó là những câu thất ngôn đường luật rất chỉnh chu :
Lá vàng từng cánh / rơi từng cánh
Rơi xuống âm thầm / trên đất xưa
Bài Gửi Gió Cho Mây Ngàn Bay rất hay, nhưng hay một cách khác, được yêu chuộng ở một giới thính giả khác.
Phạm Duy, thời trẻ, đã có những sáng tạo tân kỳ :

Buồm về dội nắng đôi vai
Bao nhiêu màu hoa ngát trên đôi môi
(Tiếng Đàn Tôi), 1947
Sau đó, anh trở về với ngôn ngữ duy lý :
Bao giờ em giở lại vườn dâu (hỡi em)
Là một câu thơ tuyệt vời : vườn dâu là niềm thương nhớ muôn trùng một nền văn minh đã khuất bóng. Nhưng Phạm Duy lại bồi thêm câu sau :
Để anh bắc gỗ xây nhịp cầu (anh) bước sang...
(Quê Nghèo, 1948)
Thì cái ý đã thu hẹp cái tứ. Câu hát trở thành thô thiển, và giới hạn âm vang.
(Tôi đã có dịp trình lên anh Phạm Duy ý này, anh cười vui : thế à ?)
Tác phẩm Lê Thương uyên bác cả nhạc lẫn lời, đã đựơc người đời yêu thích.
Trịnh Công Sơn sẽ không viết được những câu văn vẻ như Lê Thương :

Bên Man Khê còn tung gió bụi mịt mùng,
Bên Tiêu Tương còn thương tiếc nơi ngàn trùng ...
(Hòn Vọng Phu)
nhưng đã viết :
Đàn bò vào thành phố
Reo buồn tiếng hạt chuông
(...)
Đàn bò tìm dòng sông
Nhưng dòng nước cạn khô
Đàn bò bỗng thấy buồn,
bỗng thấy buồn ...
(Du Mục)
Những hình ảnh ngoài trí tưởng tượng của Lê Thương - ông vua đặt lời ca - theo sự đánh giá của Phạm Duy.
Đi vào nền tân nhạc với một tâm hồn mới mẻ, Trịnh Công Sơn đã dần dần xây dựng một nhạc ngữ mới, phá vỡ những khuôn sáo của nền âm nhạc cải cách, thành hình chỉ hai mươi năm về trước.
*

Trịnh Công Sơn tự học nhạc, chứ không được đào tạo theo hệ thống trường quy. Khi bắt đầu sáng tác, được khích lệ, mới "trao đổi nhạc lý với bạn bè", anh không nói rõ là những ai.

Câu hỏi thứ hai người tò mò đặt ra là : học nhạc một mình, thì vốn liếng nhạc thuật lấy đâu ra mà sáng tác nhiều, nhanh và hay như thế ?

Nhiều người cho là tác phẩm anh đơn giản về mặt nhạc thuật, nói là nghèo nàn cũng được.

Văn Cao nhận xét : "Trong âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm nhạc cổ điển, theo cấu trúc bác học phương tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm xúc nhạc thơ tự nó trào ra" 3.

Lối nhạc hồn nhiên, dung dị này lại đáp ứng lại với nhu cầu thời đại, theo Phạm Duy :

"Về phần nhạc, toàn thể ca khúc Trịnh Công Sơn không cầu kỳ, rắc rối vì nằm trong một số nhạc điệu đơn giản, rất phù hợp với tiếng thở dài của thời đại" 4.
 

fruit NHO

Active Member
Một thính giả bình thường, yêu quý Trịnh Công Sơn, đã viết sau khi anh qua đời : "Xét cho cùng, Trịnh Công Sơn là một nhà thơ. Một nhà thơ lớn. Nhạc là cái xe tải anh lắp lấy để chở thơ anh đến với chúng ta" (Vũ Thư Hiên, Varsovie, 4/2001). Nhận xét không đúng nhưng tiêu biểu.

Dù cho rằng nhạc thuật đơn điệu, thì cũng phải thừa nhận tài năng, có phần học tập, có phần thiên phú. Hoa hồng đẹp là do cây hồng, nhưng cũng còn nhờ vào đất đai, phân tro, mưa nắng, người chăm sóc, thậm chí cần cả người ngắm, hoa hồng mới có giá trị cái đẹp hoa hồng. Dù ở đây chỉ là một đoá vô thường.

Ta thử nhớ lại thời đại phát sinh tài năng Trịnh Công Sơn.

Năm anh 15 tuổi, 1954, Hiệp Định Genève chia đôi đất nước, cả hai miền Nam Bắc đều hoá thân trong hoàn cảnh chính trị và văn hóa mới.

Ở miền Nam, văn hoá phương Tây tràn ngập thị trường, nhất định phải ảnh hưởng mạnh mẽ đến tuổi mười lăm.

Sách báo, đĩa nhạc Pháp du nhập ồ ạt vào Việt Nam hằng ngày, giá thực tế rẻ hơn tại Paris nhờ trợ cấp hối đoái, và đây lại là thời kỳ phát minh và phát triển của loại sách bỏ túi và đĩa hát rảnh mịn (microsillon), phát hành rộng rãi, kèm theo những phương tiện truyền thanh mới. Thời trước, tuy Việt Nam là thuộc địa Pháp, nhưng văn chương Pháp chỉ du nhập qua nhà trường, giáo trình dừng lại ở cuối thế kỷ XIX : uyên bác như Xuân Diệu mà không biết Apollinaire. Sau 1954, văn hoá Pháp - và phương Tây - du nhập thẳng vào thị trường. Công chúng đọc Françoise Sagan tại Sài Gòn cùng lúc với Paris. Trên hè phố, nhất là tại các quán cà phê, người ta bàn luận về Malraux, Camus, cả về Faulkner, Gorki, Husserl, Heiddeger.

Nhà văn Bửu Ý, bạn Trịnh Công Sơn - học trước Sơn hai lớp tại Lycée Français Huế - hát Lá Rụng (Les Feuilles Mortes) một lần với Juliette Gréco ; Đời Hồng Tươi (La Vie en Rose) một lần với Edith Piaff, Barbara một lần với Yves Montand ; trong khi Thanh Tâm Tuyền dịch Barbaracủa Jacques Prévert,đăng trên Sáng Tạo và nhà văn trẻ Nguyễn Xuân Hoàng cũng ngân nga Barbara. Nguyễn Trần Kiềm, bạn cùng lớp với Sơn, đi cyclo che nắng bằng sách của Sartre.

Người ta thắc mắc về những tên ca khúc Trịnh Công Sơn cầu kỳ như Mưa Hồng, Tuổi Đá Buồn, trong khi Thanh Tâm Tuyền viết Đêm Màu Hồng, về sau trở thành phòng trà lừng danh, lại viết thêm Lệ Đá Xanh, được danh hoạ Đinh Cường, bạn thân Trịnh Công Sơn, vẽ thành tranh trừu tượng, v...v... .

Song hành với sách báo, các cơ quan văn hoá tây phương mở cửa hoạt động : Phòng Thông Tin Hoa Kỳ, Pháp, Trung Tâm văn hoá Đức ... dĩ nhiên là với những động cơ chính trị trong thời kỳ chiến tranh lạnh, mà chúng tôi không đề cập ở đây, chỉ nhấn mạnh ở ảnh hưởng văn hoá phương Tây thời đó trên đời sống trí thức miền Nam. Những Chiều Chủ Nhật Buồn nằm trong căn gác đìu hiu.. ô hay mình vẫn cô liêu, rồi đến Ngày chủ nhật buồn còn ai, còn ai : ... Tuổi buồn Em mang đi trong hư vô, ngày qua hững hờ... Không thể không nhắc đến bài Chủ Nhật Buồn, Sombre Dimanche của Seress Rejso, nghe nói đã có người tự tử vì nó. Hay vì những hư vô, cô liêu, hững hờ, thịnh hành một thời. Trong bài viết "Nỗi lòng của tên Tuyệt Vọng" anh đã tiết lộ " tôi vốn thích triết học và vì thế, tôi muốn đưa triết học vào những ca khúc của mình ". Ví dụ như : Vết lăn trầm hằn lên phiến đá mà anh gọi là di thạch : roche errante, người hát không hiểu gì, nhưng vẫn thích hát ! Nhưng nói là Rolling Stones cũng không sai.

Ca khúc Trịnh Công Sơn gợi suy tư, đáp ứng lại nhu cầu trí thức chính đáng ở một thiểu số và ảo tưởng trí thức thời thượng ở một đa số, trong đó có các cô cậu, ở mục Tìm Bạn Bốn Phương trên các báo, tự giới thiệu là "yêu màu tím" và "nhạc họ Trịnh", hay "nhạc TCS" viết tắt.

Thời kỳ này, Nguyễn văn Trung đã viết bài Ảo Ảnh Thanh Thuý. Nói về ảo ảnh Trịnh Công Sơn, ông ấy cũng có thể viết một bài hay.

Nhạc Trịnh Công Sơn đơn giản : một nhược điểm tạo dựng thành công. Phạm Duy nhận xét về Trịnh Công Sơn " Bài hát chỉ cần một chiếc đàn guitare đệm theo, nếu hoà âm phối khí rườm rà thì không hợp với những bài hát soạn theo thể ballade này ". Lại là một yêu cầu khác của thời đại : những Georges Brassens, Joan Baez lẫy lừng với cây đàn ghi-ta. Ca khúc Trịnh Công Sơn, có thể hát cho vài người nghe, cho một nhóm, hay trước quảng đại quần chúng. Nó đi vào quần chúng, nhất là giới thanh niên : Nó khác với nhạc phòng trà, có giàn nhạc và do ca sĩ hát, và thính giả đi nghe (và nhìn) ca sĩ nhiều hơn là nghe ca khúc.

Thời Trịnh Công Sơn cũng là thời của các tác-gia-soạn-giả-trình-diễn (auteur compositeur interprète) chẳng bao năm mà trở thành huyền thoại : Jacques Brel, Bob Dylan. Báo chí Mỹ gọi Trịnh Công Sơn là Bob Dylan Việt Nam, vì nội dung phản chiến, mà còn vì phong cách trình diễn.

Nhạc Trịnh Công Sơn không phải là nhạc giao hưởng. Những soạn giả bậc thầy của nhạc lý Việt Nam thời đó, như Vũ Thành, Văn Phụng, Nghiêm Phú Phi không có quần chúng.

Trịnh Công Sơn có tài đặt nhạc, soạn lời, lại biết bắt mạch thời đại, sống đúng thế hệ của mình, trong lòng đất nước, trong nhạc cảnh thế giới. Ngần ấy cái tài dồn lại, gọi là thiên tài, cũng không quá đáng.

*

Phân chất những lớp phù sa đã tấp vào dòng nhạc của mình qua những giao lưu văn hoá, Trịnh Công Sơn có nói đến những ảnh hưởng ngoại lai : " Thưở nhỏ tôi rất thích nhạc tiền chiến và có nghe một số nhạc nước ngoài. Những năm 60, tôi có nghe nhạc Blues nói về thân phận của người da đen ở Mỹ. Tôi rất thích nhạc của Louis Amstrong, D. Ellington... Tôi thấy loại nhạc này gần gũi với mình và thấy có khả năng muốn lấy nhạc này để nói lên tâm sự của mình ". 5

Và cũng trên số báo Đất Việt đó, anh cho biết thêm về ảnh hưởng : " Những năm 64-66, sáng tác có chất Blues, những năm 67-72, lại mang nhiều chất dân ca ".

"Chất dân ca" ở đây, phải hiểu theo nghĩa folk songs của Bob Dylan và Joan Baez thịnh hành thời đó. Cả hai danh ca đều hơn Sơn hai tuổi, cùng một thế hệ, cùng một lý tưởng chống chiến tranh, cùng một cây ghi-ta, cùng một điệu hát ; "Dân ca" ở đây không phải là hò mái nhì, hò giã gạo của quê hương. Nhạc dân tộc trong thời gian đầu, dường như không mấy ảnh hưởng đến anh. Những bài theo chủ đề ru con của Trịnh Công Sơn không mấy âm hưởng những bài hát ru em Việt Nam.

Sau này, thỉnh thoảng người nghe có nhận ra chút âm hưởng hò Huế, như trong " Thuở Bống là Người ", hay điệu ru dân tộc, như " Lời Mẹ ru Con " thì cũng chỉ là đôi biệt lệ, không tiêu biểu.

Gần đây, sách báo thường trích dẫn câu Trịnh Công Sơn :

" Tôi chỉ là tên hát rong, đi qua miền đất này để hát lên những linh cảm của mình về những giấc mơ đời hư ảo ".

Lại phải hiểu chữ " hát rong " theo nghĩa hiện đại : không phải là ông sẩm chợ, hát vè Thất Thủ Kinh Đô ở phố Đông Ba mà Huy Cận đã mô tả, mà hình ảnh người du ca hiện đại, những baladins itinérants trong ca khúc Bob Dylan, trong quan niệm Nhạc Du Bất Tận, Never Ending Tour (1988). Nhà thơ Tô Thùy Yên, chuộng thuyết chính danh, nên đã nói rõ điều này và gọi Trịnh Công Sơn là "người du ca chính hiệu" :

" Người du ca là một nghệ sĩ đặc biệt đứng giữa âm nhạc và thi ca, đúng hơn, người du ca là một thi sĩ nhiều hơn là một nhạc sĩ.

Người du ca thường khi xuất hiện và nổi bật trong những thời đại được coi là u uất nhiễu nhương, những thời đại mà tiếng nói con người bị lấn át, tự do con người bị cưỡng chế, giá trị con người bị hạ thấp, hạnh phúc con người bị tước đoạt và ước vọng con người bị bao vây.

Thành thử những tác phẩm du ca có thể là những tác phẩm yếu hơi, dễ dãi, sơ sài, những tác phẩm thành hình trong một thoáng cảm hứng nhất thời, những tác phẩm như những ký tự ghi chép vội vàng trên một trang giấy tình cờ, và thả bay ngay theo thời thế ".

Trong Cõi Tạm, ăn xổi ở thì này, nơi con người chôm liền chộp lẹ mọi cơ hội để mua lẻ và mua rẻ chút hư danh, có người còn viết được những lời như vậy, là nghiêm túc và tâm huyết. Nhất là viết cho một người vừa khác phe, vừa khác phái.

Văn Cao cũng là một người sành chữ nghĩa. Trong câu chuyện thân mật, anh thường nói "Sơn là một troubadour (kẻ hát rong) có tài". Nhưng khi viết về Trịnh công Sơn, anh dùng chữ chantre, trang trọng hơn, trong nghĩa "kẻ ngợi ca" : " bởi Sơn đã hát về quê hương đất nước bằng cả tấm lòng của một đứa con biết vui tận cùng những niềm vui, và biết đau đến tận cùng những nỗi đau của Tổ Quốc Mẹ hiền " 6. Troubadour hát nhạc mua vui cho trần thế, Chantre hát những Lời Buồn Thánh. Tuy nhiên, Trịnh Công Sơn cũng chỉ tự xưng là troubadour, như tên đặt cho phòng tranh anh triển lãm chung với Đinh Cường, Bửu Chỉ tại Gallery Tự Do, tháng 8/2000.

Năm 1969, bạn anh, họa sĩ Trịnh Cung, đã vẽ bức tranh đẹp, tên là Le troubadour = Kẻ du ca, hát để kêu gọi hoà bình. Những chuyện này đều tương quan với nhau.

Khi Phạm Duy gọi ca khúc Trịnh Công Sơn là những ballades, không cùng một nguồn gốc với chữ baladin, cũng là có ý trang trọng.

Các vị ấy tài cao, ý sâu mà lòng thì rộng rãi ; cho nên lời cũng khoáng đạt.

*
 

fruit NHO

Active Member
Hôm qua trăng sáng lờ mờ
Em đi tát nước, tình cờ gặp Anh
Người con gái Việt Nam da vàng, ngày xưa, đã hát như thế trong ca dao, là để che dấu khát vọng tình yêu, chứ trong đời sống nông thôn thời ấy, làm gì có cái tình cờ.
Đời sống thế giới hiện nay, nghĩ cho cùng, cũng vậy thôi. Những giai điệu blues, nhạc phản kháng Bob Dylan, Joan Baez, thơ Prévert, Aragon, Eluard ... Trịnh công Sơn đã gặp gỡ, trên dòng nhạc, dòng thơ, dòng tâm tư. Và dòng lịch sử, dân tộc và thế giới. Trong cao trào lớn của loài người, giữa lòng thế kỷ hai mươi : cao trào giải phóng dân tộc, chủng tộc và giai cấp. Đừng quên việc giải phóng phụ nữ : người phụ nữ Pháp đi phá ngục Bastille từ 1789, mãi đến 1944 mới có quyền đầu phiếu.

Người phụ nữ Việt Nam cũng vậy thôi : sau khi chờ chồng hoá đá, họ bước chân vào thế kỷ XX, thì ngồi đan áo. Từ Buồn Tàn Thu của Văn Cao, qua Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền, thơ hiện đại của Ý Nhi, cho đến năm 2000, trong ca khúc Đêm Xanh của Bảo Chấn, cô ấy vẫn ngồi đan áo, trong khi dọc hè phố, áo pull bán rẻ mạt.

Đan áo là hình ảnh ẩn nhẫn, thụ động mà người đàn ông đòi hỏi. Đan áo cho ai đó, hay để tưởng nhớ, chờ đợi ai đó. Ca khúc Trịnh Công Sơn, rất nhiều phụ nữ, nhưng không thấy họ đan áo. Mà chỉ ... ngồi chơi, khi nghiêng vai, khi nghiêng đầu, khi nghiêng sầu. Ngồi chơi chán rồi thì Đứng lên gọi mưa vào Hạ. Nếu khóc, cũng chỉ khóc cho những Chiều mưa đỉnh cao .... Mai kia, có ra đi, thì cũng là Như những dòng sông nhỏ.

Người đàn bà trong Trịnh Công Sơn đẹp dung dị và tự do bình thường. Tự do với cuộc đời, với tình yêu, thậm chí với tình dục. Nhạc Trịnh Công Sơn không nói đến tình dục, vì nói đến ... làm gì ?

Người phụ nữ nghe và hát nhạc Trịnh Công Sơn thoải mái, vì chỉ hát, hay nghe, mà không phải làm gì cả, không phải Hái Mơ, Lái Đò, bán Hàng Cà Phê, Hàng Nước, không phải thay quần áo làm cô Sơn Nữ, cô Láng Giềng hay mua lấy số phận Người Yêu của Lính. Và nhất là không phải ... đi lấy chồng : hạnh phúc không thấy đâu mà chỉ nghe oán trách dài dài suốt nửa thế kỷ : Em đi trên xác pháo, anh đi trong nước mắt... Em ơi tình duyên lỡ làng rồi, còn chi nữa mà chờ ... Và, ở một chân trời khác, họ cũng không phải ba đảm đang, ba sẵn sàng, làm Người Mẹ Cầm Súng, xung phong đi gỡ mìn ở Ngã Ba Đồng Lộc ...

Sau 1975, khi " Em ở Nông trường, em ra Biên giới " thì người nghe có cảm giác cô Tấm đã trở thành cô Cám, và Trịnh Công Sơn sẽ gào gọi Bống hỡi Bống hời, cô Tấm thỉnh thoảng có tái hiện, nhưng cũng đã tân trang nhiều lắm.

Trong xã hội Việt Nam, cho đến hôm nay, chưa chắc gì người phụ nữ đã được giải phóng, và tôn trọng đúng mức. Trong ca khúc Trịnh Công Sơn, họ được giải phóng và tôn trọng. Tôn trọng người đàn bà, không phải là tán tỉnh, Trịnh Công Sơn, rất hồn nhiên đã hiểu ra và nói vào điều đó.

*

Nhạc phản chiến, đòi hỏi hoà bình của Trịnh Công Sơn thì nhiều người biết, sẽ có nhiều người viết về đề tài này. Mới đây, trong buổi tưởng niệm Trịnh Công Sơn, tại Californie, anh Đỗ Ngọc Yến có nói rõ và nói đúng, khác với Đỗ Ngọc Yến cách đây 40 năm và 20 năm.

Tôi không đủ thì giờ viết về đề tài này, nhưng sẽ đề cập đến ở một dịp khác, nay chỉ vội nói ngay mấy ý kiến chủ quan :

1.- Dù đánh giá ra sao đi nữa, nhạc Trịnh Công Sơn cũng là sản phẩm của chế độ Việt Nam Cộng Hoà, trong cả hai mặt tích cực và tiêu cực của chế độ này.

Không có Miền Nam, cũng có thể có một Trịnh Công Sơn, nhưng là một Trịnh Công Sơn khác, đại khái như một Phạm Tuyên hay Phan Huỳnh Điểu.

2.- Chính quyền Cộng Sản, sau 1975, sau những thăm dò, đã lưu dung một phần trong nhạc phẩm Trịnh Công Sơn và đã khéo sử dụng Trịnh Công Sơn. Có thể nói sau 25 năm chiến thắng, thành công hiếm hoi, nếu không phải là duy nhất, của chính sách văn hoá của chính quyền cộng sản, là tiếp thu nhạc Trịnh Công Sơn, mà công đầu là Thành Uỷ TPHCM. Dùng chữ "chính sách", là để nhìn toàn cảnh, chứ đối với một cá nhân, chắc chỉ có những quyết định cục bộ, nhất thời, bất thành văn. Dù sao, họ cũng chỉ kế thừa kinh nghiệm Liên Xô vào thời kỳ Tân Chính Sách Kinh Tế (NEP) những năm 1920, sau cuộc nội chiến, khi Lenine thu dung những nhà văn, nhà thơ "bạn đường" (Popoutchiki) như Alexis Tolstoi hay Zamiatine.

Trong chiến tranh chống Pháp, người Cộng Sản đã không thu phục được Phạm Duy. Sau 1954, họ không thu phục được Văn Cao. Nhưng sau 1975, họ thu hoạch được Trịnh Công Sơn, như vậy đã là thành công. Thành công về mặt hiện tượng, không phải về mặt bản chất. Về mặt bản chất, chuyên chính vô sản không bao giờ chấp nhận cái gì khác họ, không phải do họ tạo ra. Mặt khác, ca khúc Trịnh Công Sơn trước kia và bây giờ không có "tiêu chuẩn" đáp lại quy luật của hiện thực xã hội chủ nghĩa. Cố gắng đến đâu thì cây cam cũng không tạo được quả chanh. Trước kia "hai mươi năm nội chiến từng ngày" là sai đường lối, bây giờ hỏi "Em còn nhớ hay Em đã quên"vẫn sai lập trường.
 

fruit NHO

Active Member
Chấp nhận - dù trong giới hạn - những dư vang của một chế độ chính trị mà mình cố công bôi xoá, chính quyền TPHCM, trong chừng mực nào đó, đã nhượng bộ quần chúng, đã gián tiếp thừa nhận mình thất bại, trong việc ngăn chặn nhạc vàng, và nhất là trong việc đào tạo một nền âm nhạc mới đáp ứng với quần chúng. Chính quyền Trung Ương Hà Nội "wait and see" để cho TPHCM "phát huy sáng kiến" ; nếu rách việc thì ra tay chận đứng một "quyết đinh địa phương", nếu vô hại thì án binh bất động, và thêm được tiếng là cởi mở, hoà hợp.

3.- Về phía Trịnh Công Sơn, anh cũng khéo thoả hiệp với chính quyền mới. Việc anh ở lại Việt Nam sau 1975, hợp tác với các hội văn nghệ Huế, rồi TPHCM là hợp lý, sau khi đã sáng tác Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm... Đó là sự chọn lựa tự do của anh. Cũng như Nguyễn Trãi xưa kia, cháu ngoại nhà Trần, mà không phò tá các phong trào kháng chiến Hậu Trần, lại đi hợp tác với đám nông dân Lam Sơn. Hay như Ngô Thời Nhậm, nhiều đời ăn lộc chúa Trịnh vua Lê, mà đã đi hợp tác với nhóm áo vải Tây Sơn. Từ đó người ta có thể thông cảm khi anh làm một số bài ca ngợi chế độ mới, không hay lắm và ít được hát, ít người biết : âu cũng là điều may mắn cho anh, vì anh đã có một số câu chữ không hay và không cần thiết.

Anh là người được hưởng nhiều bổng lộc của chính quyền, nhiều hơn những cán bộ đã vào sinh ra tử trong cả hai cuộc chiến tranh. Anh có thể hát Đời Cho Ta Thế. Thật ra, đời không cho ai cái gì mà chỉ đổi chác ; anh đã phải trả giá, có khi là giá rất đắt. Anh không trả thì nhiều người khác phải trả. Ý thức điều đó có lần anh viết : " Tôi không bao giờ có tham vọng trở thành một người viết ca khúc nổi tiếng. Nhưng đời đã tặng cho tôi món quà ấy thì tôi không thể không nhận. Và khi đã nhận rồi thì phải có trách nhiệm với mọi người ".

Nói thì ngon lành như thế. Thực tế không đơn giản : người ta cho anh bó hoa, chai rượu. Ai cho anh trách nhiệm ? Anh hát " mỗi ngày tôi chọn một niềm vui ", khi bạn anh, Thái Bá Vân, phó viện trưởng Viện Mỹ Thuật Hà Nội than : "một năm không được một ngày vui". Muốn mua vui, phải vào Sài Gòn ... chơi với Sơn. Nhưng chẳng qua là niềm vui của phận "chim lồng cá chậu" ; Hiểu như thế, bạn bè không đòi hỏi gì nhiều ở một nghệ sĩ yếu đuối, sống chết giữa trùng vây như anh.

Người ta đánh giá một tác giả qua những tác phẩm anh ta đã thực hiện, chứ không qua những tác phẩm mà "lẽ ra" anh ta phải thực thực hiện. Nhân danh cái "lẽ ra" ấy, người làm văn học nghệ thuật đã là nạn nhân của bao nhiêu là oan khiên, oan khốc và oan khuất.

Không những vì chút tình riêng, nhưng còn vì tình đời, luật công bình, luật tương đối, luật chơi, chúng ta nên gạt sang một bên nhiều cái "lẽ ra" đối với Trịnh Công Sơn, mà chỉ xét những cái anh đã làm ra.

4.- Qua bốn mươi năm truân chuyên, Trịnh Công Sơn đã có những đóng góp lớn lao vào nền văn học nghệ thuật, vào đời sống xã hội, và lịch sử chính trị. Phần lớn sự nghiệp anh đã thành hình và thành công dưới chế độ Việt Nam Cộng Hoà, mà mọi người đã biết. Bài này tạm thời chưa nói đến.

Ngoài quần chúng cũ, nghe nhạc Trịnh Công Sơn vì yêu thích hay để nhớ lại ngững âm hao xưa cũ, thì thính giả khác, giới thanh niên Việt Nam ngày nay, hay người miền Bắc trước 1975, đón nhận ra sao ?

Trong xã hội Việt Nam ngày nay, ca khúc Trịnh Công Sơn mang lại chất Thơ cho đời sống. Nhìn qua một số đĩa hát CD, thu nhiều bài của nhiều soạn giả, thì cái tên chung thường mượn tiêu đề của Trịnh Công Sơn, như Lời Thiên Thu Gọi (Hồng Nhung), Xin Mặt Trời hãy ngủ yên (Mỹ Linh), những tiêu đề nhiều âm vang, nhiều thi vị. Những nhạc sĩ khác, Dương Thụ, Phú Quang, Trần Tiến, Bảo Chấn... đều tài cao, nhưng được đào tạo và trưởng thành trong một xã hội duy dụng và thực dụng, óc sáng tạo cao siêu của họ không đặt ra những câu hỏi vớ vẩn như là Sóng Về Đâu ? Vì thực tế : sóng thì ... về đâu ? Trong một mẩu xã hội nào đó, đặt những câu hỏi như thế, là có cơ nguy bị nhốt vào nhà thương điên.

Chủ nghĩa hiện thực xã hội rất nghiêm khắc, yêu chuộng văn vần, một loại văn xuôi diễn ca (prose versifiée), với điều kiện loại văn vần ấy không có chất Thơ. Thi phẩm của "công thần" Nguyễn Đình Thi còn bị gạt ra nói gì đến "hàng thần" Trịnh Công Sơn ? Nhưng ca khúc Trịnh Công Sơn đã lọt qua được các mắt lưới, vì đã cấp thời đáp lại được "lời gọi của khoảng trống" (l"appel du vide) và ca khúc là một thể loại nhẹ, phù phiếm (genre léger), chính quyền dung dưỡng vì có khả năng chận đứng bất cứ lúc nào - như đã làm với nhạc Văn Cao ngày xưa : thậm chí bài Quốc Ca còn bị hăm doạ thay đổi. Và đang làm với Phạm Duy ngày nay. Trong các CD thu tại Việt Nam hiện nay có ai thấy Giấc Mơ Hồi Hương, nhạc Vũ Thành ?

Chính quyền dung dưỡng ca khúc Trịnh Công Sơn không phải vì động cơ nghệ thuật, nhưng như một thế phẩm (ersatz), trong thời kỳ quá độ, như bác sĩ ban thuốc an thần cho bệnh nhân mất ngủ. Trong khi chờ đợi, thính giả hưởng lạc khoản, được ngày nào hay ngày ấy. Họ đang được nghe bài Sóng Về Đâu một trong ca khúc cuối đời Trịnh Công Sơn :

Biển sóng, biển sóng đừng xô tôi
Đừng xô tôi ngã dưới chân người
Biển sóng, biển sóng đừng xô nhau
Ta xô biển lại sóng về đâu
Sóng bạc đầu và núi chìm sâu
Ta về đâu đó
Về chốn nào mây phủ chiêm bao
Xã hội chủ nghĩa có thể tạo ra nhiều bài hát hay hơn. Nhưng tạo ra được cái gì na ná như thế thì vô phương. Thiên tài không phải là người không bắt chước ai, mà là người không để ai bắt chước được mình.
 

fruit NHO

Active Member
5.- Chứng từ cho giá trị một tác phẩm nghệ thuật, là khả năng kết hợp rộng rãi và lâu dài của nó. Nhạc Trịnh Công Sơn được hát rộng rãi ở Miền Nam trước 1975, chúng ta đã biết. Nhưng trước 1975, Miền Bắc đã nghe và đã thích nhạc này, như Văn Cao đã kể lại7. Nguyễn Duy kể thêm rằng ở dọc Trường Sơn, bộ đội miền Bắc cũng đã nghe :

" Mặt trận Đường Chín-Nam Lào (1971)... trong căn hầm kèo bên dòng sông Sêbănghiêng ... Nghe, nghe trộm - vâng, lúc đó gọi là nghe trộm - đài Sài Gòn, tình cờ 'gặp' Trịnh Công Sơn qua giọng hát Khánh Ly... Diễm Xưa... Mưa vẫn mưa rơi ... làm sao em biết bia đá không đau ... Quỷ thật ! giai điệu ấy và lời ca ấy tự nhiên 'ghim' lại trong tâm tưởng tôi ngay từ phút bất chợt ấy. Rồi Như Cánh Vạc Bay... Quái thật ! ... Cảm nhận bất chợt, những bài hát rất mượt mà, đắm đuối ấy... ừ thì có buồn đấy, đau đấy, quặn thắt nữa đấy... nhưng còn là cái gì lành mạnh nảy nở trong đó. Hình như là cái Đẹp... Bảng lảng, lờ mờ, khó phân định cho đúng nghĩa, nhưng rõ ràng là đẹp, đẹp làm sao... Và cũng hơi ma quái thế nào ... "8

Người ác ý có thể ngờ vực : Nguyễn Duy là nhà báo có quyền nghe đài, sau này là bạn rượu của Trịnh Công Sơn, nên thêm thắt. Thì đây, một chứng từ khác đến từ một anh bộ đội, không quen biết gì, không điếu đóm gì với Trịnh Công Sơn, nhà văn Nguyễn văn Thọ, hiện ở Berlin :

" Năm 1972, khi ấy tôi là bộ đội trong rừng Trường Sơn. Thằng bạn tôi, sau chiến dịch Lam Sơn 719 vớ được cái đài Sony rất tốt.

Đêm Trường Sơn, chờ cho mọi người đi ngủ hết, chúng tôi lén mở đài BBC và cả đài Sài Gòn. Đấy là lần đầu tiên tôi được nghe tiếng hát Khánh Ly với nhạc Trịnh Công Sơn.

Chúng tôi là lớp người lớn lên từ Miền Bắc, thường quen với những khúc thức hùng tráng. Trong tiếng chộn rộn rú rít của sóng vô tuyến, tôi vẫn thấy một giọng lạ của một thứ âm nhạc mới. Một thứ nhạc da diết, đầy lãng đãng từ ca từ, tới khúc thức. Một thứ nhạc xanh không giống bất cứ nhạc xanh nào mà tôi từng nghe, kể cả trong những đĩa hát quay tay cổ mở suốt ngày rên rỉ ở đầu chợ trời những ngày sau hoà bình.

Rất lạ, với tôi khi đó nhạc Trịnh Công Sơn như làn gió khởi từ xa xăm đâu đó, tách khỏi hận thù trận mạc, tha thiết một tình yêu đồng loại, giống nòi, yêu bè bạn, hoà bình, đạo lý. Nó lạ, vì lối ca từ phi tuyến tính, không giống cách viết truyền thống trên những ca khúc của Hà Nội khi đó "

Quý hoá hơn nữa, anh Thọ đã ghi lại cảm giác khi tiến quân vào Sài Gòn, nghe nhạc Trịnh Công Sơn hát Nối Vòng Tay Lớn, buổi trưa ngày 30/4/1975, trên đài Sài Gòn :

" Mặt đất bao la ... anh em ta về ... gặp nhau trong bão lớn quay cuồng trời rộng ...

Lời ca không phải là tiếng thách thức tử thủ. Lời ca không phải là tiếng bể máu như kết cục thường của chiến cuộc, lời ca khi ấy làm chùng xuống không khí thù hận và hằn học.

Chúng tôi tiến vào Sài Gòn...

Nối Vòng Tay Lớn

Chiến tranh nào bao giờ chẳng có mặt trái, nhưng tiếng hát kia, bản nhạc ấy, mở ra cho cả hai bên nghe như một liều thuốc vô hình đã làm chùng xuống một thời khắc thường dễ nổi cáu và nổi doá.

Đấy là kỷ niệm thứ hai của tôi về anh "

Tiếng hát làm chùng tay súng. Một ngày, một giờ mà sinh mệnh của hằng triệu con người nằm trên đường tơ kẽ tóc, một sự kiện như thế không trọng đại hay sao ?

Văn học nghệ thuật Việt Nam, đã bao nhiêu lần đóng vai trò đó ?

Sau này, Thọ sang sinh sống tại Đức, theo diện xuất khẩu lao động, vẫn nghe nhạc Trịnh Công Sơn :

" Ngay cả sau này, đôi khi tự an ủi mình, nâng đỡ mình, tôi khe khẽ hát "Tôi ơi đừng tuyệt vọng"... và nhiều bài ca khác trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, nhưng tôi vẫn nhớ từng chi tiết và cám ơn nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ở trưa phát thanh trên làn sóng Sài Gòn ngày đó "9

Ở một chân trời khác, nhiều người oán trách Trịnh Công Sơn về việc lên đài hát Nối Vòng Tay Lớn, trưa ngày 30.4.1975. Thật ra, anh có hát hay không hát, thì chế độ Việt Nam Cộng Hoà cũng tan rã. Anh có hát, và có hợp tác với chính quyền mới, âu cũng là một cách cứu vãn vết tích văn hoá của nền Việt Nam Cộng Hoà đã đào tạo ra anh về mặt tài năng và sự nghiệp, thậm chí tạo ra cả một huyền thoại Trịnh Công Sơn.

Một lần nữa, ông Nguyễn Văn Trung, sau Ảo Ảnh Thanh Thúy nếu viết Trịnh Công Sơn Thực Chất và Huyền Thoại cũng sẽ nghĩ ra nhiều điều hay.

Nếu có ai đó nói rằng : Trịnh Công Sơn là một khổ nhục kế, để kéo dài hơi thở văn hoá của một chế độ chính trị đã bị bức tử, thì là lời đại ngôn, duy cảm, nghịch lý, vớ vẩn.

Vớ vẩn như một số lời ca trong tác phẩm Trịnh Công Sơn. Nhưng biết đâu chẳng là sự thực ? Sự thực trong bao nhiêu cái vớ vẩn, kể cả trong lịch sử.

Chế Lan Viên, năm 1984, đã viết : " Văn hoá của thực dân mới là con đẻ của chủ nghĩa thực dân mới. Quân sự, chính trị thực dân mới có chết, có băng hà thì nó cũng truyền ngôi cho văn hoá "10. Và Chế Lan Viên không phải là người vớ vẩn, viết lách vớ vẩn.

*

" Không xa đời và cũng không xa mộ người..."

Trịnh Công Sơn đã xa đời lúc 12 giờ 45 tại Sài Gòn, ngày 01.4.2001.

Đám tang ngày 4 tháng tư, nghe nói lớn lắm, hàng trăm tràng hoa ngập con hẻm 47 Duy Tân. Hàng vạn người đưa tiễn, trong đó có thể có người đi tiễn một điều gì khác, một tâm tình hay u hoài nào đó của riêng mình, chẳng hạn.

André Malraux có nói đâu đây rằng " trong Thiên Chúa Giáo, chỉ có những pho tượng là vô tội ". Trịnh Công Sơn đã sống non nửa sau cuộc đời, trong một chế độ chính trị mà các pho tượng cũng không phải là vô tội.

Những đoá hoa đặt trên mộ Toa, Sơn ơi, không phải là đoá hoa nào cũng vô tội.

Bây giờ moa mới khóc Toa đây. Tại nhà moa, ngồi ở chỗ Toa ưa ngồi vẽ, nhìn dòng sông nhỏ, mà Toa đã gọi là sông An Cựu.

Sơn ơi, đời này, và sang đời khác nữa, làm gì có đến hai dòng sông An Cựu ;

an cựu, Sơn ơi.

Đặng Tiến
 

fruit NHO

Active Member
BUỒN BÃ VỚI NHỮNG MÔI HÔN

Cao Huy Thuần


Tất cả bài nhạc của Trịnh Công Sơn đều ngắn hoặc rất ngắn. Riêng một bài duy nhất mang dáng dấp một trường ca : bài Đoá Hoa Vô Thường. Với nhạc dạo đệm trước mỗi đoản khúc, bài hát kể một tình sử triết lý qua cách hiểu của Trịnh Công Sơn về chữ " ái " và chữ " tâm ".
Đây không phải là lần đầu vô thường đi vào lời ca của Trịnh Công Sơn. Vô thường bàng bạc trong nhạc Trịnh Công Sơn từ thuở đầu, nhưng không mấy ai để ý. Lời ca của anh hay quá, thơ quá, hát lên nghe đã bâng khuâng rồi, đâu cần hiểu ý nghĩa, chỉ mang máng thấy lời thơ có một chiều sâu triết lý thiếu vắng hẳn trong nhạc Việt Nam. Có lẽ chính tác giả cũng chưa ý thức được rõ ràng điều mình cảm nhận, và chính nhờ thế mà tính cách mông lung của lời ca làm rung động lòng người, khác với lời văn sáng sủa. Với Đóa Hoa Vô Thường, Trịnh Công Sơn nhạc hoá lý thuyết và lý thuyết hoá nhạc. Anh còn chua thêm giải thích ở mỗi chuyển mạch để ý của nhạc được hiểu rõ hơn. Đoạn thứ nhất là đi tìm tình, nhịp thong dong. Đoạn thứ hai là gặp tình, đưa tình về, nhịp hớn hở, mùa xuân trên những mái nhà, có con chim hót tên là ái ân. Đoạn thứ ba là bốn mùa yêu nhau trong lẽ vô thường của trời đất. Sau đó, nhạc bắt đầu hiu hắt, một thời yêu dấu đã qua, ôi áo xưa em là một chút mây phù du. Rồi nhạc mạnh và êm dịu lại để đi vào đoạn kết : từ đó ta là đêm nở đoá hoa vô thường. Tại sao nhạc êm dịu lại ? Anh giải thích : tình do tâm ta mà sinh, có khi tình mất mà tâm còn động vọng, đến lúc tâm bình an thì tình kia cũng đoạn nỗi.

Chữ " ái ", đó là chỗ mà ai cũng thấy nơi Trịnh Công Sơn, chiếc nôi trong đó chúng ta nằm nghe anh ru từ mấy chục năm nay. Chữ " tâm " là cánh cửa mới mở ra trước Trịnh Công Sơn, nơi anh có cảm tưởng đang đến, kết thúc một đời rong chơi. Từ " ái " đến " tâm ", Đóa Hoa Vô Thường trình bày một quá trình chuyển hoá trong đó chuyện đời cũng như chuyện tình diễn biến dưới hình thức đối nghịch của từng đôi, từng cặp như tôi với em : tìm/gặp, gặp/mất, mất/còn, có/không. Vô thường, trong Trịnh Công Sơn, không có gì khác hơn là cái có đi vào cái không. Có thể ý tưởng về quá trình đối nghịch đó đã nằm trong vô thức của Trịnh Công Sơn từ trẻ. Hát lại Trịnh Công Sơn từ khi anh mất, trực nhận của tôi chợt bắt gặp vô thức của anh. Tôi sẽ nói ở đây những đối nghịch đó mà tôi nghĩ luôn luôn là nét chính trong nhạc Trịnh Công Sơn. Tôi sẽ trích khá nhiều ví dụ, nhưng tôi phải tự kiềm chế tôi, nếu không thì hát hoài không dứt.

Tôi muốn bắt đầu bằng một đối nghịch trong cách vẽ tranh của Trịnh Công Sơn. Chẳng tại sao cả. Chỉ vì nói đến nhạc Trịnh Công Sơn mà bắt đầu bằng triết lý chắc là không ổn, vì anh là thi sĩ. Phải bắt đầu bằng người đẹp, người đẹp nhất trong tất cả những người đẹp nhất từ hai trăm năm nay : Thúy Kiều.

Gió sẽ mừng vì tóc em bay
Cho mây hờn ngủ quên trên vai
Tại sao gió sẽ mừng ? Vì tóc em là gió. Gió đùa với gió, làm sao gió không vui ? Tại sao mây lại hờn ? Vì tóc em là mây. Mây thua nước tóc, làm sao mây không dỗi ? Em là giai nhân toàn bích. Thế nhưng một nhan sắc toàn bích không làm Trịnh Công Sơn rung động. Giữa toàn bích, anh chấm một nét hỏng, và chính nét hỏng đó là cái duyên làm say lòng người.
Cho mây hờn ngủ quên trên vai
Vai em gầy guộc nhỏ
Như cánh vạc về chốn xa xôi
Tất cả những người đẹp của Trịnh Công Sơn đều có vai gầy. Vai gầy, có thể đẹp. Nhưng gầy guộc thì nhất quyết là hỏng. Thì thiếu da thơm quả ngọt mùa xuân. Vậy mà khi thả giọng trầm xuống chữ guộc, tôi tưởng như nghe có cánh con vạc bất chợt vỗ nước bay vào đêm thâu. Đêm vắng sâu hơn và Thúy Kiều đẹp hơn.
Đối nghịch là nét nhạc riêng của Trịnh Công Sơn. Anh nói một điều rồi anh nói điều trái lại. Như nét hỏng nằm giữa toàn bích. Bài hát này của anh đối nghịch với bài hát kia, lời một đối nghịch với lời hai, câu sau nghịch với câu trước, thậm chí hai hình ảnh nghịch nhau trong cùng một câu, trong vòng đôi ba chữ.

Tôi lấy ví dụ Trịnh Công Sơn hát cô đơn. Anh là người cô đơn cùng cực :

Trời cao đất rộng một mình tôi đi
Một mình tôi đi
Đời như vô tận một mình tôi về
Với tôi.
Anh cô đơn với. Chữ với làm tôi rờn rợn. Như câu sau này :
Một ngày thấy bóng em qua nơi này / một lần với bóng tôi
Một ngày đã có em xa nơi này / một ngày với vắng tôi
Với vắng tôi. Em chỉ với khi nào không có tôi. Em cộng với con dấu trừ. Cho nên chúng ta chỉ có cái bóng của nhau.
Trịnh Công Sơn hát cô đơn thảm sầu như vậy, nhưng hát đôi lứa cũng nồng nhiệt vời vợi. Anh cổ vũ :
Hãy ru nhau trên những lời gió mới
Hãy yêu nhau cho gạch đá có tin vui...
Hãy kêu tên nhau trên ghềnh dưới bãi
Dù mai nơi này người có xa người
Trịnh Công Sơn hát tuyệt vọng. Anh nằm chết lịm trong tuyệt vọng, tuyệt vọng rơi rất gần rơi xuống trong tôi như hoa tiễn đưa rơi trên mộ. Nhưng anh lại đánh trống thúc quân đừng tuyệt vọng tôi ơi đừng tuyệt vọng. Anh đang nằm xuống hay anh đã đứng dậy ?
Trịnh Công Sơn nhìn đời buồn tênh. Buồn tênh !

Sống có bao năm vui vui buồn buồn người người ngợm ngợm
Sống chết mong manh như thân cỏ hèn mọc đầy núi non
Nhưng Trịnh Công Sơn yêu đời thắm thiết. Anh quỳ xuống, tạ ơn đời đã cho anh hạnh phúc lẫn thương đau :
Dù đến rồi đi tôi cũng xin / tạ ơn người tạ ơn đời
Tạ ơn ai đã cho tôi còn những ngày / quên kiếp sống lẻ loi
Dù đến rồi đi tôi cũng xin / tạ ơn người tạ ơn đời
Tạ ơn ai đã cho tôi tình sáng ngời / như sao xuống từ trời
Tôi biết có người sẽ nói : thì Trịnh Công Sơn cũng như mọi nghệ sĩ khác, có vui có buồn, có yêu thương, có tuyệt vọng. Không phải thế ! Trong nhạc Trịnh Công Sơn, vui đi cặp đôi với buồn, hạnh phúc sóng bước với thương đau trong cùng một bài, trong cùng một câu. Đây là hai vế trong cùng một bài, vế thứ nhất là thương đau :
Tình yêu như nỗi chết cơn đau thật dài
Tình khâu môi cười / hình hài xưa đã thay / mặn nồng xưa cũng phai
Tình chia nhau gian dối / tình đày tình đôi nơi
Vế thứ hai là hạnh phúc :
Một mai thức dậy / chợt hồn như ngất ngây / chợt buồn trong mắt nai
Rồi tình vui trong mắt / rồi tình mềm trong tay
Hạnh phúc tưởng như thiên thu :
Tình cho nhau môi ấm / một lần là trăm năm
Cũng hai vế đối nhau như thế trong hai đoạn, tôi hát thêm bài nữa. Đoạn trước là phụ bạc, nợ nần :
Hai mươi năm xin trả nợ dài
Trả nợ một đời em đã phụ tôi
Em phụ tôi một thời bé dại
Thơ dại ra đi không nhớ gì tôi
Thơ dại ra đi quên hết tình tôi
Đoạn sau là tha thứ lau xoá oán trách, yêu thương vẫy gọi yêu thương :
Bao nhiêu năm vẫn lại nhiệm mầu
Trả nợ một lần quên hết tình đau
Hai mươi năm vẫn là thuở nào
Nợ lại lần này trong cõi đời sau
Đó là hai vế nghịch nhau trong một bài. Bây giờ là hai vế nghịch nhau trong cùng một đoạn. Như thế này là có hay không :
Tiếng thì thầm từng đêm nhớ lại
Ngỡ chỉ là cơn say
đóa hoa vàng mỏng manh cuối trời
Như một lời chia tay
Như thế này là xa hay gần :
Tình như nắng vội tắt chiều hôm
Tình không xa nhưng không thật gần
Như thế này là rộng hay hẹp :
Tình yêu như biển biển rộng hai vai
Tình yêu như biển biển hẹp tay người
Biển hẹp tay người
Lạc lối.
Như thế này là có hay không, mưa hay nắng, đông hay xuân, khứ hay hồi :
Ngoài hiên vắng giọt thầm cuối đông
Trời chợt nắng vườn đầy lá non
Người lên tiếng hỏi người có không
Người đi vắng về nơi bế bồng
Như thế này là sống hay chết, tàn hay nở :
Chìm dưới cơn mưa một người chết đêm qua
Chìm dưới đất kia một người sống thiên thu
Chìm khuất trong ta một lời nói vu vơ
Chìm dưới sương thu là một đóa thơm tho
Như thế này là ngày hay đêm, lên hay xuống :
Gió cuốn đi cho mây qua dòng sông
Ngày vừa lên hay đêm xuống mênh mông
Đó là hai vế nghịch nhau trong cùng một đoạn, hoặc giữa câu trước với câu sau. Nhưng lại rất lắm khi nghịch với thuận, không với có, trộn lẫn với nhau, buồn xen trong vui, mông lung không biết đâu là vui đâu là buồn. Mưa là buồn chăng ? Không hẳn, mưa trong Trịnh Công Sơn rất hồng, vì mưa trong nắng, mưa khi trời ươm nắng cho mây hồng. Nắng là vui chăng ? Không hẳn, lung linh nắng thủy tinh vàng, nhưng nắng lên mà chợt hồn buồn dâng mênh mang. Mưa Huế rất nặng hột, vậy mà mưa cứ như thì thầm dưới chân ngà. Nắng được trời gọi lên, nhưng trời cũng chẳng biết đó là nắng của mưa hay mưa của nắng :
Gọi nắng cho cơn mưa chiều nhiều hoa trắng bay
Nắng qua mắt buồn lòng hoa bướm say
 

fruit NHO

Active Member
Bao nhiêu nụ hồng trong Trịnh Công Sơn, lạ quá, đều là nụ hồng tàn : em gọi nụ hồng vừa tàn cuối sân ; đóa hoa hồng tàn hôn lên môi em ngày tháng dài. Có một chút của cái này và một chút của cái kia. Có một chút của cái này trong một chút của cái kia. Có một chút xuôi trong ngược. Trăm năm trong xuân thì. Chân như trong hạt lệ :
Bước tới hư vô khoác áo chân như
Long lanh giọt lệ / long lanh giọt lệ / giọt lệ thiên thu
Phôi pha cũng vậy. Trong nhớ đã có quên, trong quên vẫn cứ nhớ, tưởng vơi mà đầy, trong con nước rút đi có hồng thuỷ dâng lên :
Tình ngỡ đã phôi pha nhưng tình vẫn còn đầy
Người ngỡ đã xa xăm bỗng về quá thênh thang
Ôi áo xưa lồng lộng đã xô dạt trời chiều
Như từng cơn nước rộng xoá một ngày đìu hiu
Đến đây, e không còn nói đối nghịch được nữa. E phải nói đối hợp. Vẫn nghịch như trời với đất, nhưng sương phủ mênh mông nối đất với trời. Chỉ còn mông lung sương. Rõ ràng nhất là cặp vợ chồng đi-về. Không bao giờ Trịnh Công Sơn nói đi mà không nói về. Hễ có đi là có về, hễ về là lại đi, không bao giờ câu trên đi mà không có câu dưới về, thậm chí đi về nằm ôm nhau trong một câu, trong hai chữ, trong một cõi, một cõi đi về.
Trong khi ta về lại nhớ ta đi
đi lên non cao đi về biển rộng
Vừa đi vừa về như thế, đôi chân loanh quanh không biết xoay sở thế nào, tự hỏi, thắc mắc : đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt. Bốn mùa cũng loanh quanh như thế : mùa xuân chưa qua mùa hạ đã đến, mùa thu chưa đi, mới đầu thu thôi chân ngựa đã về. Mà chỗ về của Trịnh Công Sơn cũng lạ : không phải về nơi đây mà về chốn xa. Con người ra đi, tưởng đi đến đâu, ô hay chỉ làm một vòng xinh rồi trở về nơi cũ, như nằm mộng thấy mình đi :
Đường chạy vòng quanh một vòng tiều tuỵ
Một bờ cỏ non một bờ mộng mị
Ngày xưa.

Tôi nghe có người nói một câu hay khi đến thăm một người rất danh tiếng vừa chết : chỉ có ông ta không biết ông ta chết. Tôi nghĩ Trịnh Công Sơn không nói như vậy. Chắc anh vẫn đang thấy anh, vẫn đang thấy mọi người tiếp tục chạy vòng quanh. Tiếp tục đi, tiếp tục về. Tôi nghe như anh đang hát thế này với các người đẹp đến khóc anh : Này em,
Không có đâu em này không có cái chết đầu tiên
Và có đâu bao giờ đâu có cái chết sau cùng
Không có đầu tiên, không có sau cùng, không đầu không đuôi, làm sao chết được, bởi vì làm sao bước ? Phải có cái bước đầu tiên mới có cái bước thứ hai, mới có cái bước sau cùng, mới chết, mới có người khóc, mới có văn tế. Vì bước không được, cho nên Trịnh Công Sơn chỉ lăn, và anh đã nghêu ngao như thế rồi. Anh ngồi giữa con phố, nhìn những gót chân thon đi ngược, nhìn những gót chân hồng đi xuôi, và anh í a tôi xin làm đá cuội và lăn theo gót hài. Anh lăn như thế nhiều lần với ám ảnh tử sinh. Sống chết là bánh xe lăn tròn, vô thuỷ vô chung. Trịnh Công Sơn không nói bánh xe, nhưng anh lăn theo những hòn sỏi, hòn đá, vốn là những hình ảnh quen thân của anh từ những bái hát đầu :
Hòn đá lăn bên đồi / hòn đá rớt xuống cành mai
Rụng cánh hoa mai gầy / chim chóc hát tiếng qua đời
Trước đây, khi hát những bài đó, tôi không để ý đến ý niệm bánh xe, nhưng gần đây, Trịnh Công Sơn làm tôi ngạc nhiên khi anh đưa đối hợp có-không, một-hai, vào lời nhạc của anh một cách rõ rệt, thú vị, tinh quái. Anh khóc như thế này :
Còn hai con mắt khóc người một con
Còn hai con mắt một con khóc người
Lối khóc rất ngộ này tóm tắt cách nhìn đời của Trịnh Công Sơn trong suốt nhạc phẩm của anh. Với một con mắt anh nhìn người. Với một con mắt anh nhìn anh. Một con mắt, anh nhìn tình phai. Một con mắt, anh nhìn anh thở dài. Nhưng cùng một con mắt kia, anh vừa nhìn thấy em yêu thương, vừa thấy em thú dữ. Cùng một con mắt này, anh vừa thấy đêm tối tăm, vừa thấy đêm nồng nàn. Chẳng biết mắt nào là mắt còn lại, chỉ biết rằng con mắt còn lại nhìn một thành hai. Chỉ biết rằng :
Con mắt còn lại nhìn đời là không
Nhìn em hư vô nhìn em bóng nắng
Con mắt còn lại là con mắt ai
Trịnh Công Sơn làm tôi giật mình. Bóng nắng là một chữ trong kinh, và, như anh nói, từ khi trời là trời trăng là trăng câu kinh đã bước vào đời. Con mắt còn lại là con mắt ai ? Tôi không muốn nghĩ như thế, nhưng tôi cảm thấy câu trả lời nằm trong đoạn kết của Đoá Hoa Vô Thường mà anh đã soạn rất khúc chiết với nhập đề, thân bài, kết luận, với quá trình tìm em - gặp em - mất em - an nhiên.
Trịnh Công Sơn làm tôi giật mình. Anh bắt tôi phải hát lại những bài hát trước trong cảm nhận mới đó của tôi về chập chờn bóng nắng trong tâm thức của anh. Con mắt còn lại hiện ra, và đây là một mà hai :
 

fruit NHO

Active Member
Từ lúc đưa em về
Là biết xa nghìn trùng
Nghìn trùng nằm ngay nơi giây phút tao ngộ. Và đây là hai mà một :
Từ trăng thôi là nguyệt một hôm bỗng nghe ra
Buồn vui kia là một như quên trong nỗi nhớ
Từ trăng thôi là nguyệt tôi như giọt nắng ngoài kia
Từ em thôi là nguyệt coi như phút đó tình cờ
Buồn vui là một, quên nhớ là một, phút tình cờ chụp bắt được điều đó hiện ra đây đó khá nhiều, có điều là Trịnh Công Sơn hát lên nhẹ nhàng như thơ, người hát nghe giọng thơ nhiều hơn là nghe ý tưởng. Nếu để ý, câu hát sâu thẳm. Lại ví dụ :
Lòng thật bình yên mà sao buồn thế
Giật mình nhìn tôi ngồi khóc bao giờ
Thật bình yên. Mà buồn ! Buồn nằm sẵn trong bình yên ? Nếu không, tại sao anh khóc từ bao giờ ? Anh khóc từ trước, rồi anh mới giật mình, trong một phút tình cờ, thấy mình đang khóc. Ai không tin ở cái giật mình đó, hãy nghe Trịnh Công Sơn giật mình một lần thứ hai :
Dù thật lệ rơi lòng không buồn mấy
Giật mình tỉnh ra ô nắng lên rồi
Thật lệ rơi. Mà không buồn ! Giật mình : nắng lên. Thế thì nắng đã nằm sẵn trong giọt lệ ? Là một với giọt lệ ?
Tôi bắt gặp chớp nhoáng thần bí đó trong cả cách dùng tĩnh từ của Trịnh Công Sơn : môi em hồng như lá hư không. Lá hư không là thế nào ? Là môi em vừa có dáng như ngọn lá vừa có dáng không như ngọn lá ? Là có màu vừa hồng vừa không phải hồng ? Có một cái gì vừa thật vừa không thật ? Nghĩ cho thật kỹ, đúng là môi em tôi như thế. Đúng như tôi nghĩ là như thế. Nói như ngọn lá, như màu hồng là sai.

Lại một tĩnh từ khác trong rất nhiều ví dụ như vậy :

Nhìn cỏ cây ráng pha màu hồng
Nhìn lại em áo lụa thinh không
Ráng chiều có thật nhưng sắp đi vào hư ảo rồi, chớp nhoáng thôi. Nhìn hư trong thực như thế, giật mình nhìn lại em tôi... ôi thần kỳ hai chữ thinh không ! Lụa nhẹ như khói đang tan, em cũng vậy, như thực như huyễn, chỉ còn là nét đẹp diễm ảo, mong manh đó thôi.
Tôi không muốn đóng khung Trịnh Công Sơn trong một triết thuyết nào cả. Anh tuyên bố chỉ muốn làm kẻ rong chơi và chấp tay van vái chỉ xin được như thế mà thôi. Nhưng khi anh mất, tôi không khỏi nghĩ đến những mong manh đã ám ảnh anh những năm gần đây và tôi giật mình chợt thấy anh đã là thi sĩ của mong manh như vậy từ lúc đầu, từ bao giờ ? Đây là đoá quỳnh của thuở xuân xanh :

Đêm này đêm buồn bã với những môi hôn
Trong vườn trăng vừa khép những đoá mong manh
Tại sao môi hôn mà buồn bã thế ? Buồn nằm trong hạnh phúc ? Là một với nhau ? Nhưng quả thật đoá quỳnh đã hôn đêm trăng như thế. Hãy xem hoa nở :
Ta mang cho em một đoá quỳnh
Quỳnh thơm hay môi em thơm
Em mang cho ta một chút tình
Miệng cười khúc khích trên lưng
Hoa đang nở trên lưng một cuống lá dài như môi ai cười trên lưng một người tình. Nhưng cũng môi đó, mới cười với trăng đã hôn từ giã đêm trăng với những cánh đang khép, đang úa, buồn bã. Tôi giật mình : đoá quỳnh của thuở xuân xanh chính là đoá hoa vô thường nở trong tâm của anh ở khoảng cuối đời. Anh đi với đoá quỳnh, anh đến với đoá quỳnh, khép lại một chu kỳ vòng quanh. Anh là đêm trăng của ngày xưa đã hôn nhau buồn bã với đoá quỳnh mong manh và từ đó dòng nhạc của anh róc rách những mong manh như thế cho đến khi anh chơt nhận ra ta là đêm nở đoá hoa vô thường. ***
Còn lại chuyện cuối cùng phải nói : vậy thì tôi với em là một hay hai ? Là một chăng ? Thì đấy, Trịnh Công Sơn đã có lần hăng hái :

Em là tôi và tôi cũng là em
Chẳng ai tin. Người không tin nhất chính là anh. Đừng tin !
Đừng nghe tôi nói lời tăm tối
Đừng tin tôi nhé vì tiếng cười
Tôi như là người ngồi trong đêm dài
Nhìn tôi đang quá ngậm ngùi
Tôi với em không thể là một được bởi vì em là muộn phiền và muộn phiền thì đối nghịch với hồn nhiên mà tôi mơ ước. Hồn nhiên lấp lánh như mặt trời trong lắm bài. Trịnh Công Sơn mơ ước trở về với hồn nhiên như trở về với bản chất của anh, như trở về với con chim thuở nhỏ, với hoa trên đồng xanh một sớm mai rất hồng. Anh muốn trở về với thật thà, với khờ dại, với ngây ngô, anh ngẩn ngơ nhìn người kia, dường như chờ đợi thật ra đang ngồi thảnh thơi, anh nhìn đứa bé. Đứa bé ! đó mới thật là một của Trịnh Công Sơn, bởi vì đó là hồn nhiên, đó là cội nguồn, đó là quê nhà nằm sâu trong tiềm thức của anh. Hồn nhiên có khi trở về lồng lộng trong cả bài hát như cánh diều lồng lộng trong không, có khi âm thầm, văng vẳng, thiết tha, sâu lắng trong một câu, trong một chữ. Những lúc đó, Trịnh Công Sơn hân hoan :
Hôm nay tôi nghe có con chim về gọi
Về giữa trời về hót giữa đời tôi
Hôm nay tôi nghe tôi cười như đứa bé
Mới lớn lên giữa đời sống kia
Trịnh Công Sơn là người thi sĩ duy nhất của tình yêu không cho chữ em đi sóng đôi một cặp ngọt ngào với chữ anh. Chữ em mồ côi chữ anh trên lưỡi. Chữ em mù loà đi tìm chữ anh. Gặp vớ vẩn một hai lần trong một hai bài hát đầu, nhưng nhạt nhẽo, vô duyên lắm. Còn thì Trịnh Công Sơn chỉ tôi với em, em với ta, như thử hai người yêu là hai người ở trọ gần nhau.
Có lẽ vì thế mà tôi hát Trịnh Công Sơn với hạnh phúc tràn trề. Bởi vì tôi hát sự thực trong lòng tôi, trong lòng người, trong lòng đời. Có bao giờ ai một với ai trong cuộc tình ? Cứ xa xa mà tôi khiêm tốn như thế, hoạ may tưởng mình có lúc đến gần làm một. Như thế là hạnh phúc. Đến gần, giọt nắng thủy tinh có khi là giọt lệ.

Cao Huy Thuần
 

fruit NHO

Active Member
Nhớ Trịnh Công Sơn

"Anh là Con Người sẽ chẳng bao giờ cô đơn" (*)

Nguyễn Văn Thọ

Năm 1972, khi ấy tôi là bộ đội trong rừng Trường Sơn. Thằng bạn tôi, sau chiến dịch Lam Sơn 719 vớ được cái đài Sony rất tốt.
Đêm Trường Sơn, chờ cho mọi người đi ngủ hết, chúng tôi lén mở đài BBC và cả đài Sài Gòn. Đấy là lần đầu tiên tôi được nghe tiếng hát Khánh Ly với nhạc Trịnh Công Sơn.

Chúng tôi là lớp người lớn lên từ Miền Bắc, thường quen với những khúc thức hùng tráng. Trong tiếng lộn chộn rú rít của sóng vô tuyến, tôi vẫn thấy một giọng lạ của một thứ âm nhạc mới. Một thứ nhạc da diết, đầy lãng đãng từ ca từ tới giai điệu. Một thứ nhạc xanh không giống bất cứ nhạc xanh nào mà tôi từng nghe, kể cả trong những đĩa hát quay tay cổ mở suốt ngày rên rỉ ở đầu chợ trời nhưng ngày sau hòa bình.

Rất lạ, với tôi , nhạc Trịnh Công Sơn như làn gió khởi từ xa xăm đâu đó, tách khỏi hận thù trận mạc, tha thiết một tình yêu đồng loại, giống nòi, yêu bè bạn, hòa bình, đạo lý. Nó lạ, vì lối ca từ phi tuyến tính, không giống cách viết truyền thống trên những ca khúc của Hà Nội bấy giờ.

Cũng khác hẳn với tiếng tơ trùng, những Suối Mơ, Thiên Thai của Văn Cao; khác hẳn tiếng đau lòng lê thê của Phạm Duy....Một thứ nhạc giản dị, dường như chậm trãi trễ nải, âm âm đập vào trái tim tôi như lời tha thiết của một con người nào đấy; xa vời nhưng gần gũi, tao nhã nhưng sâu sắc! Chúng tôi lẩm nhẩm hát theo sau vài đêm.

Đấy là lần đầu tiên làm quen với Trịnh Công Sơn.

Chiến tranh như một cơn lốc dìm đắm mọi đam mê khát lạ.

Chúng tôi liên miên hành quân và hạ Chư Nghé. Nghỉ ngơi, bổ sung quân rồi mở đầu chiến dịch chiếm toàn bộ Buôn Ma Thuật; rồi chẳng thể nghỉ ngơi, tràn xuống con lộ hết đánh Cheo Reo, Phú Bổn lẫn Lê Bắc ... và tràn xuống Hố Bò, cửa ngõ Sài Gòn.

Trong chiến dịch năm ấy, không ít người ngã xuống quanh tôi và đại đội tôi chéo qua Đồng Dù theo hướng bệnh viện Vì Dân tiến thẳng vào trung tâm Sài Gòn.

Chẳng ai muốn chết trận cuối cùng cả. Hy vọng sống, dù có khi không thoát khỏi cái chết. Tôi bật đài vô tuyến theo dõi chiến sự. Khi ấy vô tình chạm phải sóng Sài Gòn. Trên cái xe Zeep chiến lợi phẩm, ngay trước một trại huấn luyện mà từ đó loáng thoáng tiếng rẹt rẹt R15, tôi nhận ra cái chất giọng quen thuộc của nhạc sỹ Trịnh.

"Mặt đất bao la ... anh em ta về ... gặp nhau trong bão lớn quay cuồng trời rộng ..." Lời ca không phải là tiếng thách thức tự thủ. Lời ca không phải là tiếng bể máu như kết cục thường của chiến cuộc, lời ca khi ấy làm chùng xuống không khí thù hận và hằn học.

Chúng tôi tiến vào Sài Gòn.

Trên đường quần áo, khí cụ , giầy dép binh sĩ SàiGòn vất ngập đầy đường. Những khuôn mặt bỡ ngỡ của dân thành phố, những khuôn mặt nhớn nháo của đám loạn quân đã thay quần áo hoặc mặc độc quần đùi nhìn chúng tôi.

Không! Chiến tranh chấm dứt rồi. Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng và làn sóng vô tuyến liên tục phát dàn hợp ca:

Nối Vòng Tay Lớn.

Chiến tranh bao gìơ chẳng có mặt trái, nhưng tiếng hát kia, bản nhạc ấy mở ra cho cả hai bên nghe như một liều thuốc vô hình đã làm chùng xuống một thời khắc thường dễ nổi cáu và nổi đóa.

Đấy là kỷ niệm thứ hai của tôi về anh.

Trịnh Công Sơn!

Đã có quá nhiều người viết về nhạc sỹ có tài này. Với tôi, anh, nhạc sỹ ấy mang lại dấu ấn ngay từ lần gặp trong rừng và ấn tượng chẳng phai mờ của một ngày đặc biệt. Một ngày chấm dứt hoàn toàn cuộc chiến ở Việt Nam . Một ngày, nhạc anh, tấm lòng vô biên luôn có ý thức Nối Vòng Tay Lớn, lại một ngày góp phần giảm thiểu đi những điều thừa thãi vô ích của thời cuộc, không cần có của con người. Ngay cả sau này, đôi khi tự an ủi mình, nâng đỡ mình, tôi khe khẽ hát một mình một bài ca của anh : Tôi ơi…đừng tuyệt vọng…và nhiều bài ca khác trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, nhưng tôi vẫn nhớ từng chi tiết và cám ơn nhạc sỹ Trịnh Công Sơn ở trưa phát thanh trên làn sóng Sài Gòn ngày đó.

Bây giờ, Trịnh Công Sơn không còn nữa. Anh lại lãng du vui chơi ở miền nao? Tôi âm thầm cúi mặt trong đêm khi nghe tin từ Đỗ Quyên - Ca Na Da báo tin anh mất. Tưởng tượng thấy khuôn mặt hanh hao của anh, cây ghi ta gỗ và văng vẳng bên tai tôi:

-Nối Vòng Tay lớn!

Xin vĩnh biệt anh!

Một lời bầy tỏ, biết ơn nhạc sỹ đã cả đời mình cống hiến nguồn vui, sẻ buồn cho triệu triệu con người và với lớp chúng tôi, anh là con người nhân ái, biết truyền nhân ái cho bao người khác.

Trịnh Công Sơn, về Cát Bụi, tôi hiểu, anh là Con Người sẽ chẳng bao giờ cô dơn.

Nước Đức, 04-04-01
Nguyễn Văn Thọ
 

fruit NHO

Active Member
Anh Trịnh Công Sơn và tôi

Thanh Hải

Mùa hè năm 2000, tôi chưa có ý định về thăm lại quê hương. Nhưng vợ con và bạn bè cứ rủ mãi, nên cuối cùng tôi cũng quyết định về thăm gia đình và bạn bè một chuyến.
Không ngờ đó cũng là lần cuối gặp lại anh Sơn, đi hát cùng anh, trò chuyện, vui cười... Anh đã ôm tôi từ giã trong vòng tay gầy guộc của anh tại Hội Văn Nghệ TP HCM trước ngày tôi trở về Đức. Chúng tôi còn hẹn sẽ gặp lại nhau tại Toulouse, nơi mà các bạn Liêm, Hương, Đỉnh, Thủy, anh chị Hớn, Trần Bích Thủy, Nguyễn Thanh Vân... và rất đông bạn bè bên ấy đã nhiều lần mong đợi có dịp đón tiếp anh.

Giờ đây khi được tin anh mất, tôi sững sờ và quá xúc động. Thương tiếc và buồn bã khiến tôi không nói nên lời. Tôi biết rằng những người bạn trong anh em chúng tôi cũng đang âm thầm khóc anh. Anh Sơn ơi, anh đã đi thật rồi sao ?

Tôi muốn viết thật nhiều về anh, nhưng biết bắt đầu từ đâu ? Tâm tư tôi đang ngổn ngang nhiều nỗi, tôi không ngồi yên để viết được. Hôm nay, nỗi buồn đã thấm dần và lắng đọng, tôi mới yên tĩnh để bày tỏ những gì tôi nghĩ về anh.

Trong tâm trạng một người em đã có thời chia sẻ với anh những vui buồn, những cảm nghĩ vu vơ trong tình yêu, thân phận con người, quê hương trong giai đoạn khó khăn ngày ấy, lòng tôi bùi ngùi đau xót khi cảm nhận rằng mình đã thực sự mất anh...

Với tôi, anh Trịnh Công Sơn không chỉ là một người anh, một người thầy, mà còn là một người bạn rất dễ thương, mặc dầu anh lớn hơn tôi mười tuổi. Tôi chưa hề thấy anh bực mình, hoặc tỏ vẻ khó chịu khi tôi hát nhạc của anh mà có lúc quên lời, tôi "chế" ra theo cảm nghĩ của mình, và mỗi lần nghe được, anh chỉ mỉm cười khoan dung nhắc lại lời anh Trương Thìn đã nói: " Nhạc sĩ là người sáng tác, mà ca sĩ lại là người sáng tác lần thứ hai, phải không Thanh Hải ? "

Rất tiếc tôi không về gặp được anh để cùng uống với anh ly trà từ biệt, vì nghe đâu trong những ngày tháng cuối của cuộc đời anh chỉ uống trà, theo như lời anh Sâm Thương kể lại : " Sơn không uống rượu nữa, chỉ được uống trà. Những bạn bè thân thuộc không nỡ để Sơn uống trà một mình, nên cũng đã ngồi nhấm trà cùng anh "...

Tôi sinh ra tại miền Trung, mảnh đất nơi tôi lớn lên cùng chiến tranh và nghèo đói. Giai đoạn cuối của những năm 1960, tôi cũng như bao nhiêu người thanh niên khác, sống trong khắc khoải lo âu của cuộc chiến, chán nản và tìm đủ mọi cách để trốn tránh. Rồi tình cờ một hôm trốn học, tìm một góc ấm cúng trong một quán café, nghe tiếng hát của anh Sơn và Khánh Ly qua cuộn băng Ca khúc da vàng, tôi đã tìm được cho tâm hồn mình một lối thoát. Tôi đã cảm nhận được những dòng nhạc của anh từ đó.

Tiếng hát và lời nhạc của anh thấm dần trong tôi từng ngày theo cuộc chiến, và cũng từ đó tôi thường ôm đàn hát những lời của anh, khi tiếng súng xa xa vẫn vọng về. " Đại bác đêm đêm dội về thành phố, người phu quét đường dừng chổi đứng nghe... Một buổi sáng mùa xuân, một đứa bé ra đồng, đạp trái mìn nổ chậm, xác không còn đôi chân, em thơ ơi chiều này trường học lại, trong sân chơi bạn và thầy im lời, bài học về yêu thương trên giấy mới, sao hôm nay nét mực đã phai ? "... Ôi những lời nhạc tha thiết của anh, anh đã nói dùm tôi, nói dùm mọi người. Tôi không nghĩ rằng một ngày nào đó tôi sẽ đựơc gặp anh. Cuộc sống mong manh quá... !

Cuộc chiến cứ kéo dài mãi và đời sinh viên ở Sàigòn mang nặng những chán chường.

Mùa xuân năm 1975 tôi về lại miền Trung mà lòng vui như hội, vì từ nay chiến tranh đã chấm dứt. Ước mơ hoà bình đã thành sự thật. Lời hát của anh vang vọng khắp nơi. Sau đó tôi trở lại Sàigòn và đi hát đó đây cùng các bạn.

Năm 1976 tôi gặp lại anh Phạm Trọng Cầu - người nhạc sĩ tôi quen trước đây tại phòng âm nhạc của viện đại học Vạn Hạnh - lúc ấy tôi đang sinh hoạt trong đoàn văn nghệ Vạn Hạnh dưới sự đảm trách của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ. Một hôm, không nhớ là ngày tháng nào, có lẽ duyên hội ngộ đưa đẩy, anh Phạm Trọng Cầu đã đưa tôi đến gặp anh Trịnh Công Sơn tại Hội Văn Nghệ. Tôi vẫn nhớ hôm gặp gỡ đầu tiên ấy, anh Cầu bảo anh Sơn : mày ngồi đây nghe Thanh Hải hát thử bài này, và tôi đã hát :

Đi về đâu hỡi em khi trong lòng không chút nắng
giấc mơ đời xa vắng, bước chân không chờ ai đón
Đời nhẹ nâng bước chân em về lại trong phố thênh thang
Những buồn xưa sẽ quên, hãy yêu khi đời mang đến
một cành hoa giữa tâm hồn...

Đó là bài Đời gọi em biết bao lần, nhạc phim mà anh vừa sáng tác. Từ đấy chúng tôi quen nhau. Hình như đã có một sự cảm thông nào đó không nói được ngay trong buổi gặp gỡ đầu tiên ấy.

Nhạc của anh Sơn viết lúc đó rất bị hạn chế, đôi khi còn bị chặt đầu chặt đuôi để bình phẩm, lên án. Chẳng hạn bài Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui : tại sao mỗi ngày lại chọn một niềm vui ? Tại sao mỗi ngày lại chọn một đường đi ? Rồi tại sao : " em ra đi nơi này vẫn thế ? " Phải tốt hơn chứ !...

Thời điểm ấy thật là khó khăn và khốn đốn !

Hai anh em tôi lúc ấy hầu như ngày nào cũng gặp nhau : sáng uống café ở Hội Văn Nghệ, trưa về khách sạn Bông Sen uống bia cùng anh Nguyễn Quang Sáng, anh Muộn, tối nếu không đi hát cùng nhóm, thì tụ về nhà anh Sơn ngồi chơi, uống rượu, hát nghêu ngao với những người bạn, đa số là các bạn từ xa về. Có nhiều đêm tôi đang nằm nhà, sắp đi ngủ thì nghe tiếng anh gọi trước cửa. Biết ngay là anh đang cần, tôi vội chạy xuống để chở anh về tận nhà. Đó là những lúc anh chỉ còn biết " chỉ có ta trong cuộc đời mà thôi "...

Nhóm " giới thiệu sáng tác mới " cũng ra đời trong khoảng thời gian đó. Lạ một điều là nhóm thuộc hội Trí Thức Yêu Nước, chứ không thuộc hội Văn Nghệ, mặc dầu những người trong nhóm hầu hết đều là nhạc sĩ của hội Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh. Nhóm sinh hoạt rất vui, và chúng tôi thường được mời đi đây đi đó hát. Những bài hát thường là những sáng tác mới của các anh Phạm Trọng Cầu, Hoàng Hiệp, Trương Thìn, Trịnh Công Sơn, Trần Long Ẩn, Miên Đức Thắng, Nguyễn Nam, Lâm Cao Thanh, nhà thơ Lê Thị Kim..., với tiếng sáo đệm của Nguyễn Phước, Tân đánh trống, Thanh đại hồ cầm. Các anh thường tự đàn và hát những sáng tác của mình. Ca sĩ thì có Tường Vi, Thanh Hậu, tôi, và một vài bạn khác nữa. Nhóm được nhiều khán giả yêu chuộng, và mỗi lần đi lưu diễn chúng tôi đều được tiếp đãi rất là ưu ái. Thời gian ấy tôi thường hát nhạc của anh Trịnh Công Sơn : Đời gọi em biết bao lần, Cánh chim cô đơn, Em đến tự nghìn xưa, Vì tôi cần thấy em yêu đời, Chiều trên quê hương tôi, Một cõi đi về, Tôi vẫn nhớ... Thỉnh thoảng tôi lại xé rào với sự chấp thuận của anh Trương Thìn - bác sĩ kiêm nhạc sĩ, phụ trách điều khiển chương trình của nhóm - hát lại những tình khúc cũ của anh Trịnh Công Sơn tại hội Trí Thức Yêu Nước. Nhóm đã để lại trong tôi nhiều kỷ niệm khó phai mờ.

Thời gian sau đó là những ngày đất nước càng khó khăn thêm. Số người ra đi ngày càng nhiều. Bài hát Em còn nhớ hay em đã quên được anh Sơn viết ra đúng ngay vào lúc ấy.

Đây là một bài hát mà tôi thật là khó quên. Vào dịp ấy hội Văn Nghệ Việt Nam lần đầu tiên từ Hà Nội vào Sàigòn tổ chức 3 ngày ca nhạc tại rạp Rex. Tôi được mời hát trong những buổi hát đó. Trước ngày trình diễn một hôm, tôi gặp anh Trịnh Công Sơn đang chạy chiếc xe PC trong một buổi trưa nắng gắt trên đường, gặp tôi anh khoe liền : " Mình vừa mới viết xong một bản nhạc, đi theo mình về nhà tập thử ! " Thế là hai anh em kéo nhau về nhà anh bỏ cả ăn trưa để tập bài hát mới.

Thú thật, nhìn bản nhạc còn ướt mùi mực, dài ơi là dài mà lòng tôi ngao ngán, bởi vì ngày mai phải hát xuất đầu tiên rồi, làm sao mà thuộc cho hết !... Nhưng sau đó, lời nhạc đã cho tôi một nỗi cảm xúc thật sự, những hình ảnh trong bài đều rất thực đối với tôi.

Em còn nhớ hay em đã quên, nhớ Sàigòn mưa rồi chợt nắng, nhớ phố xưa quen biết tên bàn chân, nhớ mặt đường vàng hoa như gấm...

Dường như đây cũng là những cảm nghĩ của tôi. Có lẽ anh đã viết bài này để tặng tôi chăng ? bởi vì dầu tôi không nói, nhưng anh đã hiểu được rằng một ngày nào đó tôi cũng sẽ ra đi...

Tôi đã diễn đạt bài này một cách tốt đẹp và thành công suốt sáu buổi hát trong ba ngày liền, mặc dầu sau mỗi xuất hát anh Sơn đều đến gặp tôi để đề nghị thêm bớt, sửa đổi một vài chỗ mà anh vừa chợt nghĩ ra, đắc ý hơn. Có một điều vui là, vì bài hát mới và dài, nên đôi lúc tôi cũng không nhớ hết được, có khi đã phải tự ứng biến vài nơi, nhưng anh Sơn không hề quở trách. Bài hát đã gây ra một giao động không nhỏ trong dân chúng Sàigòn lúc ấy. Khán giả cho biết họ đã cảm xúc thật sự khi nghe bài này và trong rạp đã có nhiều người lau nước mắt...
 

fruit NHO

Active Member
Cuối năm 1981, tôi cũng ra đi. Mười một tháng nằm trên đảo, tôi vẫn hát nhạc của anh cho bạn bè nghe, nhưng trong lòng mang một tâm trạng khác.

Sáu năm gần gũi bên anh, hai anh em đã chia sẻ với nhau những tâm tình, vui buồn, xót xa bằng những cảm nhận không cần nói nên lời. Điều đặc biệt ở anh, là anh đã vượt qua được tất cả, anh đã có một tấm lòng bao dung không thù hận, ngay cả với những người đã dèm pha, tìm cách dìm anh xuống trong giai đoạn khó khăn ấy. Có lần anh đã nói với tôi : " Moa biết tất cả, không có gì qua mắt được moa đâu, nhưng thôi kệ... "

Cuộc sống xa quê hương nơi đây đối với tôi thật u buồn và trầm lặng. Tôi nhớ Sàigòn, nhớ đèn đường từng đêm thao thức, nhớ xôn xao hàng quán đêm đêm, nhớ món ăn quen, nhớ ly chè thơm, nhớ bạn bè chào nhau quen tiếng... Lời hát của anh tôi càng thấy thấm thía hơn.

Có một điều an ủi cho tôi, là nhiều người bạn ở Châu Âu này rất yêu mến nhạc Trịnh Công Sơn. Họ thường mời tôi đến để hát những bài hát của anh, và nhờ đó chúng tôi có dịp quen thêm bạn bè ở Paris, Toulouse, Lourdes, Lyon, Bruxelles, Liège, Genève, Fribourg, Lausanne, Stuttgart, Muenchen, và các tỉnh khác ở Đức. Tôi đến với anh em bằng tâm tình của một người bạn, không khách sáo, không chính trị, không thương mãi. Cám ơn những người bạn với tâm hồn văn nghệ thật dễ thương và thoải mái, đã cho tôi và An những tình cảm thân quý, những ngày vui trong cuộc sống tha hương này. Cám ơn anh Trịnh Công Sơn và những bài hát tuyệt vời của anh.

Tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu được mình. Một số người cho rằng, anh Trịnh Công Sơn không chịu ra đi là vì anh theo cộng, tôi hát nhạc của anh tức là tôi cũng thiên cộng. Có báo còn viết rằng, Hànội đã gởi tôi ra nước ngoài hát nhạc Trịnh Công Sơn để ru ngủ kiều bào tại hải ngoại.

Ôi cuộc đời thật là phức tạp..!

Tết 1989 tôi về thăm lại quê hương. Gặp lại anh Sơn, tình cảm giữa chúng tôi vẫn thắm thiết, vui vẻ. Nhiều người yêu cầu tôi cho nghe lại những bài hát của anh, dù chỉ một bài, nhưng tôi không hát. Tôi đến thăm anh nhiều lần, lần nào cũng gặp nhiều văn nghệ sĩ và nhiều người anh chưa hề quen biết từ Hà nội vào ngồi uống rượu cùng anh. Anh cho biết lúc này anh thích hoạ. Anh chỉ cho tôi những bức hoạ mà anh đã sáng tác.

Cũng mùa hè năm ấy, tháng 6.1989, tôi được Nhà Việt Nam tại Paris, qua thơ mời của anh Bạch Thái Quốc, sang Paris để gặp anh Trịnh Công Sơn và hát với anh một đêm. Thật là cả một điều vui mừng và bất ngờ đối với tôi, vì Tết vừa rồi không nghe anh nói gì về chuyến đi này cả.

Tôi vẫn nhớ mãi câu nói đầu tiên tại Paris của anh Sơn khi gặp lại tôi trong quán tối hôm ấy : " Thanh Hải chạy đi đâu cũng không thoát khỏi moa, ...và toa biết không, khi moa vừa đặt chân xuống phi trường Charles de Gaule thì cả phi trường đều tắt điện đón chào moa... ", rồi anh cười thích thú. Hôm ấy chúng tôi ngồi chung thật là đông vui, ấm cúng, có các anh Bửu Ý, Bạch Thái Quốc, Phạm văn Đỉnh, Yoshii Michiko - cô bạn người Nhật của anh Sơn, Như An, và nhiều anh chị em khác nữa. Chúng tôi đã cảm nhận được một hạnh phúc êm ái khi gặp lại nhau, ngồi bên nhau, chuyện trò với nhau giữa thủ đô nước Pháp - một dịp vui bất ngờ và hiếm có. Hôm sau hai anh em đã cùng nhau chọn lại những bài hát để chiều hôm ấy hát tại Nhà Việt Nam. Bây giờ nhìn lại những tấm hình kỷ niệm lần gặp gỡ đó, tôi không khỏi ngậm ngùi thương tiếc...

Vừa rồi đài phát thanh tại Paris đã gọi điện thoại qua phỏng vấn tôi, khi nghe tin anh Trịnh Công Sơn qua đời tại Sàigòn. Anh Dũng đã hỏi tôi về những kỷ niệm giữa tôi và anh Sơn, vì sao tôi thích hát nhạc của anh, tôi đã quen anh Sơn từ lúc nào, lần gặp anh Sơn tại Paris năm 1989 đã để lại ấn tượng gì trong tôi và anh Sơn. Thú thật, lúc đó tâm hồn tôi dao động quá, những cảm xúc và buồn bã trong tôi, tôi không bày tỏ được. Sự mất mát đến quá nhanh, tôi chưa nói được gì...

Lần gặp ở Paris mới đó mà đã mười hai năm trôi qua rồi. Nếu tôi nhớ không lầm thì năm đó cũng là năm Tỵ, năm con rắn. Tấm hình ngày đó anh cười thật tươi. Năm nay, tình cờ Như An lại chọn tấm hình ấy để làm lịch cho năm Tân Tỵ 2001. An in làm hai tấm, một cho tôi và một gởi về tặng anh Sơn nhân dịp sinh nhật 28.2 của anh. Tôi nhờ bạn tôi, anh T.Q. Sen trong dịp về Việt Nam đến thăm và trao dùm cho anh. Những ngày đó nghe đâu anh không được khoẻ, bạn bè muốn gặp anh đều được hẹn qua lần khác, vì anh cần yên tĩnh nghỉ ngơi.

Anh Sơn ơi, không ngờ mùa hè năm 2000 vừa qua lại là lần cuối cùng từ giã anh ! Tôi còn nhớ rõ như in những ngày hè tháng bảy vừa qua tại Sàigòn, tôi và Như An, Trương Hồng Liêm, Kim Hương thường gặp anh, ngồi uống nước quanh cái bàn nho nhỏ ở Hội Văn Nghệ, có cả anh Hoàng Hiệp, Sâm Thương, Trần Long Ẩn, Trần Tiến, Phạm Văn Hạng, Huỳnh Phi Long cùng một vài người bạn khác... Hôm sau lại gặp nhau ở câu lạc bộ Nghệ Sĩ, hôm khác lại đi ăn ở quán Ba Miền. Những hôm ấy anh nói nhiều câu thật tếu, làm cả bọn cười vang. Chúng tôi " hơi bị vui " như lời anh nhận xét, và cảm thấy hạnh phúc nhẹ nhàng làm sao.

Nhớ nhất là đêm văn nghệ hôm thứ sáu 21.7.2000 tại Saigon Times Club. Trong không khí thân mật cùng bạn bè từ Đức, Pháp về Việt Nam thăm nhà và nhóm bạn anh Võ Như Lanh, chủ nhiệm tờ Kinh Tế Thời Báo, theo lời mời của anh, sau mười chín năm đây là lần đầu tiên tôi hát lại tại Sàigòn. Trong đêm ấy, anh Trịnh Công Sơn đã cùng tôi hát rất nhiều. Anh đã thật sự cảm hứng và tự động bước lên sân khấu, một cái bục nhỏ và thấp, rất thân tình, anh đã hát một cách say mê, đầy cảm xúc. Đó là một điều thật ngạc nhiên, vì như các bạn cho biết, những năm gần đây hầu như anh chưa bao giờ hát nhiều và hát say mê đến như vậy.

Bài cuối cùng, anh ngồi trên một chiếc ghế bên cạnh tôi, trên bục sân khấu nhỏ, anh nói với chúng tôi rằng : " Bây giờ mình sẽ tặng Như An và Thanh Hải một bài hát. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù bất cứ nơi đâu, Như An và Thanh Hải cũng đừng bao giờ tuyệt vọng ". Rồi anh hát, mắt nhắm lại như gởi tất cả tâm hồn vào đó :

Đừng tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vọng
Lá mùa thu rơi rụng giữa mùa đông
Đừng tuyệt vọng, em ơi đừng tuyệt vọng
Em là tôi, và tôi cũng là em
Đừng tuyệt vọng, em ơi đừng tuyệt vọng
Nắng vàng phai như một cõi đời riêng
Đừng tuyệt vọng, em ơi đừng tuyệt vọng
Em hồn nhiên, rồi em sẽ bình minh...
Tôi đang khóc khi viết lại những dòng này. Tim tôi đang thổn thức. Anh Sơn ơi, sẽ không bao giờ tuyệt vọng, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Lời của anh tôi sẽ còn hát mãi, hát mãi và nhớ mãi ...

Thanh Hải
Cộng hoà Liên bang Đức, giữa tháng 4.2001
 

fruit NHO

Active Member
Cũng sẽ chìm trôi ...

Thanh minh của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Sau bài nói chuyện, đã được phổ biến rộng rãi, về Trịnh Công Sơn của Trịnh Cung, chúng tôi nhận được bài đính chính sau đây của Hoàng Phủ Ngọc Tường nhờ phổ biến.
Ban Biên Tập Diễn Đàn


Vừa qua trong một cuộc tiếp xúc với các thân hữu tại quận Cam (Mỹ), hoạ sĩ Trịnh Cung có công bố một số thông tin lệch lạc về tôi, và về mối quan hệ giữa Trịnh Công Sơn, lúc ấy vừa mới qua đời, và tôi. Buổi nói chuyện sau đó được phổ biến qua hai bài : 'Bài nói chuyện của Trịnh Cung' và 'Bi kịch nhỏ giữa bi kịch lớn của đất nước', mà tôi hiện đang có trong tay.

Vì thấy cần trân trọng sự quan tâm của nhiều bạn hữu, và tôn trọng sự thật, tôn trọng tối thiểu đối với nhân cách tôi, tôi xin phép đính chính lại những thông tin của Trịnh Cung và khẳng định như sau :

1. Nhiều điều trong tư liệu nói trên, từ miệng Trịnh Cung, là không đúng với sự thật và xúc phạm đến danh dự của tôi.

Ví dụ cụ thể, Trịnh Cung đã nói rằng : Vào thời điểm 1975, Trịnh Công Sơn đã phải làm kiểm điểm nộp cho Hoàng Phủ Ngọc Tường, tôi không bằng lòng, và đã ra lệnh cho Trịnh Công Sơn phải đi học tập cải tạo.

Đây là chuyện hoàn toàn bịa đặt. Về thời điểm 1975 tại Huế, Trịnh Công Sơn đã kể lại với phóng viên báo Đất Việt tại Canada là Vĩnh Xương, bút danh của Lương Châu Phước hiện ở Montréal :

" Khi giải phóng tôi ở Huế, được thư và điện của bạn bè ở chiến khu và miền Bắc, như các anh Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Khoa Điềm. Cùng các anh em đó tôi lập ra Hội Văn Nghệ ở Huế ", (Đất Việt, tháng 6.1986, tr. 22, cột 2).

Nghĩa là Trịnh Công Sơn không phải đi học tập cải tạo, hiểu theo nghĩa chính xác. Nhưng cũng như nhiều người khác, kể cả công nhân viên nhà nước, anh ấy đã đi "thâm nhập thực tế" làm "nghĩa vụ lao động theo xã hội chủ nghĩa" theo danh từ hồi đó. Cụ thể là đi trồng khoai, trồng sắn trên những mảnh đất còn mìn, vùng Bình Trị Thiên.

Điều này Sơn dã nhiều lần kể lại với ký giả ngoại quốc, như J.C. Pomonti đã tường thuật trên nhật báo lừng danh của Pháp là "Le Monde" (Thế Giới, ngày 2/3/1995, và lập lại sau khi TCS qua đời, báo đề ngày 4/4/2001). Cả thế giới đều đã đọc, đều đã biết, nay sao Trịnh Cung lại ứng khẩu, phát hiện ra điều ngược lại ?

Ngoài ra, tôi, Hoàng Phủ Ngọc Tường, là người viết văn viết báo, suốt đời chưa bao giờ có chút quyền hành gì, thậm chí cũng chưa thừa hành điều gì đáng kể, làm sao "ra lệnh" được cho ai ?

2. Cũng không hề có việc anh Trịnh Công Sơn phản ứng lạnh nhạt với tôi, bằng cách đóng cửa không thèm tiếp tôi trong một thời gian dài như Trịnh Cung đã nói.

Bằng chứng là tập nhạc đầy đặn của Trịnh Công Sơn 'Em còn nhớ hay em đã quên', (nxb Trẻ TPHCM 1991), là do tôi đề tựa. Nếu Trịnh Công Sơn giận hờn tôi thì sao lại nhờ tôi đề tựa ?

Về sau, nghe nói nhà xuất bản Hồng Lĩnh ở Mỹ đã in lại tập nhạc với cả bài tựa của tôi, nhưng lại đục bỏ tên tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sao đời tôi lại nhiều oan khiên như vậy ?

Nhưng cho dù, trong muôn một, Trịnh Công Sơn, lúc nào đó, có lạnh nhạt với tôi, hay với ai đi nữa, thì cũng là chuyện giữa bạn bè với nhau, đem ra nói làm gì .

3. Cuối cùng, tôi thật tình không hiểu tại sao Trịnh Cung lại chọn thời điểm tang tóc này để bịa đặt ra những chuyện lẻ tẻ trong khi ngoài mặt vẫn thân thiện với tôi ?

Phải chăng vì bài tựa của tôi quá dở, không đáp ứng được với yêu cầu trí thức và tâm tình cao cả của Trịnh Cung ? Hay là vì từ ngày tôi bị bệnh tai biến mạch máu não, sống sót nhờ sự cứu trợ của bạn đọc, bạn hữu trong và ngoài nước, vợ con nheo nhóc, tôi không còn khả năng thù tạc với Trịnh Cung ? Chả nhẽ vì vậy ?

4. Hiện nay Trịnh Cung đang tập hợp những bài viết của bạn bè thân thiết với Trịnh Công Sơn để in thành sách, ông ấy xin tôi bài. Tôi vui lòng đóng góp vì nghĩ rằng không gì quý bằng tình người, cụ thể hơn là tình bạn, mà tôi đã nhiều lần cảm thấy trong những cơn gian nguy, cùng khổ, bệnh tật, chết chóc.

Do đó, sau những dòng thanh minh này, tôi bỏ qua chuyện Trịnh Cung đã vu oan giáng hoạ cho tôi, xem như chưa bao giờ xảy ra.

Chỉ nên giữ lại cho nhau những gì tốt đẹp.

Còn những thị phi, rồi « cũng sẽ chìm trôi », như ai đó, một lần đã hát.

Hoàng Phủ Ngọc Tường

Lễ là tảo mộ ...
Huế, ngày 5 tháng 5, 2001
 

fruit NHO

Active Member
Lúc 12 giờ 45, ngày 01 tháng 4 năm 2001, Trịnh Công Sơn đã ra đi. Trái tim nhân ái và nhạy cảm ấy đã ngừng đập ; bộ óc đầy mỹ cảm và sáng tạo ấy đã thôi vận động. Anh đã để lại cho bạn bè và những người hâm mộ anh một nỗi tiếc thương vô hạn. Một sự mất mát lớn, một khoảng trống không gì bù đắp nổi cho nền âm nhạc hiện đại Việt Nam. Một nhạc sĩ nổi tiếng cùng thời đã nhìn nhận một cách vô tư rằng Trịnh Công Sơn là người viết tình ca hay nhất thế kỷ của Việt Nam. Nói về sự ra đi của anh, những người mến mộ còn ở lại cái cõi trần ai này đã bày tỏ bằng nhiều cách với nhiều ý nghĩa khác nhau. Nhưng nói bằng cách gì và với ý nghĩa nào thì cũng không thể làm vơi đi được nỗi đau thương và mất mát ấy. Rõ ràng là có một sự biến mất về hình hài vật chất mà cha mẹ anh đã tạo nên anh. Quy luật tự nhiên của vũ trụ vô tình vốn hữu sinh thì hữu diệt, hữu hình thì hữu hoại. Nhưng mà thật ra anh vẫn ở lại, ở lại mãi mãi với nền âm nhạc, với nền văn minh và văn hóa nước nhà. Cả một đời lao động sáng tạo cật lực anh đã góp được vào trong sự nghiệp nghệ thuật chung của cả nước hơn 600 ca khúc. Một sự nghiệp đồ sộ. Và đây chính là cái phương tiện, cái quyền năng đã giúp anh chống lại định mệnh. Cái định mệnh của đời người vốn khắc nghiệt và độc ác đã chưa từng bao giờ cho phép ai sống đến tận cùng niềm vui và nỗi khát vọng sống như chính mình mong muốn.
Đối với cộng đồng xã hội, một khi anh nằm xuống, anh đã thanh thỏa hết mọi " trái khoản" một cách sòng phẳng với trần gian. Một đời mình anh đã làm hết mọi điều mà anh mong muốn, và đã ra đi đúng lúc. Còn tất cả những gì mà anh đã để lại cuộc đời nó sẽ cứ tồn tại một cách hiển nhiên và minh bạch. Không có gì đáng trách và cũng không có gì phải hồ nghi cả.
Thiên tài ư ? Anh đâu cần cái hư danh ấy. Anh là anh, chính điều này mới lớn lao. Vả lại, chính hậu thế vốn rộng lòng và trong sáng hơn đương thời sẽ quyết định điều này. Nhưng dù gì thì gì, đấy vẫn là hư danh. Cái hư danh khiến cho những con người đầy tham vọng sẽ vật lộn, tranh giành nhau một cách đau khổ. Mà thật ra chưa khi nào, dù một lần anh đã thầm ước mơ đến cái tên gọi đầy sân hận đó.

Nhân cách của anh ? Tôi sẽ trả lời rằng Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ đầy nhân cách. Còn lớn hay nhỏ ư ? So với ai ? - Người đời vốn hay chấp về hình tướng, mà hình tướng thì thường làm cho con người mê.

Tôi nói nhân cách của Trịnh Công Sơn nó đầy đủ ở trong thái độ nghệ thuật của anh. Thái độ nghệ thuật này luôn nhất quán ở trong sáng tạo nghệ thuật của mình mà chưa hề khi nào vong thân hay thoái hóa biến chất cho đến phút cuối cùng. Khẳng định về một điều như thế đối với một người đang còn sống thật khó. Nhưng đối với một người đã nằm xuống ta sẽ không còn phải lo sợ rằng họ còn có thể tốt hay có thể xấu, còn có thể đúng hay có thể sai, xứng đáng hoặc không xứng đáng nữa.

*

Một con đường dẫn nhập vòng quanh như vậy đối với tôi là cần thiết, để dọn đường vào vấn đề mà tôi đã tự đặt ra cho mình : Trịnh Công Sơn và nhạc phản chiến của anh. Trong quá trình trình bày vấn đề này, tôi sẽ cố gắng làm toát ra cái tài năng và nhân cách hiếm có đó nổi bật lên trên cái bối cảnh Việt Nam máu và nước mắt, khói lửa và nỗi kinh hoàng trong cuộc chiến dai dẳng và khốc liệt thời bấy giờ. Một cuộc chiến tranh mang tính tất yếu lịch sử của một dân tộc bị áp bức ; nhưng sự chọn lựa và quyết tâm ấy đã không ít đau thương. Và Trịnh Công Sơn đã xuất hiện trong bối cảnh đó như lương tâm của một con người mang trái tim nhân ái nhạy cảm, chỉ biết nói lên những cảm xúc nồng nhiệt của mình đối với quê hương dân tộc, dù thiếu vắng một thái độ chính trị, nhưng trung thực. Nghĩa là tự đáy lòng mình thì mình nói.

Tôi sẽ không nói đến những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn với tư cách một nhà phê bình văn học về lời nhạc, cũng như không phải trong tư cách của một nhà nghiên cứu âm nhạc đối với nghệ thuật âm thanh của anh. Mà với tư cách của một người chứng, sống cùng thời và từng sinh hoạt với anh, tôi sẽ nói về thái độ dấn thân bằng âm nhạc của Trịnh Công Sơn trong công cuộc vận động hòa bình cho đất nước đầy tuyệt vọng ; nhưng cũng đầy ý nghĩa và giá trị nhân bản đó. Nghĩa là nói về một Trịnh Công Sơn nghệ sĩ đích thực, một con dân nước Việt mang tình yêu chân thực đối với quê hương vào cuộc. Khẳng định anh trong ý nghĩa này là khẳng định chính sự đóng góp của anh vào trong những giá trị văn hóa, văn minh của cả nước. Một Việt Nam luôn xây dựng trên nền tảng con người và hòa bình.

Thế nào là nhạc phản chiến, và phản chiến như thế nào ?

Phản chiến ở đây là bày tỏ thái độ của mình không tán thành chiến tranh, và sự không tán thành này có nghĩa là một sự đồng cảm, chia sẻ với những con người đang phải gánh chịu những nỗi mất mát, đau thương trong chiến tranh. Đồng cảm mà không đứng ở ngoài, đứng ở một bên ; mà đứng ở cái thế chung cùng một số phận, một định mệnh. Sơn không nhân danh một " Isme " nào cả; cũng như không chủ trương chống lại một " Isme " nào cả. Hoặc có chăng là anh nhân danh cái gọi là " humanisme ", xu hướng nhân bản. Mà thật ra cũng chỉ là một cách gọi đấy thôi. Nói cho cùng, đó là tất cả những gì mình cảm xúc, tất cả những gì vang vọng trong tâm khảm của mình từ một thực tại máu xương như thế của đồng bào thì mình nói ngay ra. Nói không do dự, nói như một lời khẩn báo. Đỗ Phủ ngày xưa ở bên Tàu làm thơ bày tỏ sự xót thương đối với hàng vạn con đỏ đang bị dìm trong máu lửa chiến tranh mà người đời sau cho rằng ông có tinh thần chống chiến tranh là vậy. Thật ra ông chỉ muốn nói lên niềm xúc động sâu xa của mình đối với thời thế, mà ở bên sau cái nỗi niềm này không tiềm chứa một ý thức, một tinh thần cơ hội nào.

Tắt một câu, trong dòng nhạc phản chiến của mình, Trịnh Công Sơn đã chẳng có một toan tính chính trị nào cả. Mà tất cả là làm theo mệnh lệnh của con tim mình, một con tim thương đời, thương người, để nói lên tiếng nói của con tim đó đối với quê hương, dân tộc một cách trung thực và chân thành. Và một khi anh đã vĩnh viễn nằm xuống yên nghỉ thì câu khẳng định này đã trở nên hùng hồn hơn.

Ta sẽ thấy mệnh lệnh của trái tim này đi xuyên suốt trong tất cả các sáng tác thuộc dòng nhạc phản chiến này của anh. Trước hết ta có thể tạm sơ lược về con đường sáng tác các ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn như sau :

- Ý thức phản chiến trong ca khúc của Trịnh Công Sơn đã manh nha vào những năm 1965, 1966. Trong giai đoạn này anh đã cho ra đời tập ca khúc Ca khúc Trịnh Công Sơn (Thần thoại quê hương, tình yêu và thân phận) do An Tiêm xuất bản 1966. Sau đó phát triển dần trong tập Ca khúc da vàng vào cuối 1966 và đầu 1967, tập Kinh Việt Nam năm 1968, tất cả đều do anh tự ấn hành lấy. Cùng với những cuộc xuống đường rầm rộ của thanh niên, sinh viên, học sinh ở đô thị miền nam Việt Nam chống Mỹ và chế độ cũ đòi hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước, anh đã cho xuất bản tập ca khúc Ta phải thấy mặt trời vào năm 1970 (Tự ấn hành dưới cái tên Nhà xuất bản Nhân Bản). Năm 1972, khi tình hình chiến sự ở miền nam Việt Nam ngày càng leo thang đến độ khốc liệt nhất, anh đã cho ra đời tiếp tập Phụ khúc da vàng (tự ấn hành dưới cái tên Nhà xuất bản Nhân Bản). Đây là tập cuối cùng của dòng nhạc phản chiến của anh. Tổng kết tất cả gồm 5 tập, với 58 ca khúc, chưa kể những bài rời được sáng tác ngay trong những cuộc xuống đường cùng thanh niên, sinh viên, học sinh Huế.
 

fruit NHO

Active Member
So với những tình khúc mà Trịnh Công Sơn đã sáng tác được trong suốt cuộc đời mình cho đến lúc qua đời, số lượng của những ca khúc phản chiến tương đối ít. Nhưng chính những ca khúc này đã làm cho danh tiếng của anh sáng lên một cách chói lọi. Phải nói là độc sáng. Và chính trong cái vầng hào quang làm nền này, tình khúc của Trịnh Công Sơn tiếp tục sáng giá cho đến hôm nay và mai sau. Chính những ca khúc phản chiến thời bấy giờ đã chắp cánh cho danh tiếng của anh bay ra khỏi biên giới Việt Nam để đến với thế giới, đặc biệt là Nhật Bản. Nơi xứ sở này anh đã từng có những " Đĩa Vàng ". Và lưu danh trong bộ tự điển Bách Khoa Pháp Encyclopédie de tous les pays du monde.

Thật vậy, vào những năm 58, 59, 61, 62, những tình khúc như Ướt mi, Thương một người, Nhìn những mùa thu đi, Biển nhớ v.v... đã bắt đầu nổi tiếng trong những phòng trà ca nhạc ở miền Nam. Nhưng phải chờ đến những năm 65, 66, 67 khi tiếng hát của Trịnh Công Sơn cất lên trong các giảng đường Đại Học Sài Gòn và Huế, trước hàng ngàn sinh viên học sinh cuồng nhiệt, với những ca khúc trong các tập Ca khúc Trịnh Công Sơn và Ca khúc Da vàng, cái tên Trịnh Công Sơn đã trở thành một hiện tượng. Hiện tượng Trịnh Công Sơn.

Những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn được chép để chuyền tay, được in ra băng cassette, hoặc băng từ loại lớn, còn gọi là băng Akai... Nghĩa là mọi hình thức phổ biến, phương tiện phổ biến đều được tận dụng. Người ta nghe nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn trong quán cà phê, người ta nghe trong những cuộc sinh hoạt tập thể của thanh niên, thậm chí người ta nghe trong khuê phòng và nghe ở cả những tiền đồn heo hút...

Dàn trải trên nền một điệu Blue buồn đau và uất nghẹn, với nhịp hát kể Recitativo, ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn vút lên :

"... Ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè
ngựa hồng đã mỏi vó chết trên đồi quê hương
còn có ai không còn người, ôi nhân loại mặt trời
và em tôi này đôi môi xin thương người
ôi nhân loại mặt trời trong tôi..."
(Xin mặt trời ngủ yên - ca khúc Trịnh Công Sơn)
Và,
"... Giọt nước mắt thương con, con ngủ mẹ mừng
Giọt nước mắt thương sông ấp ủ rêu rong
Giọt nước mắt thương đất, đất cằn cỗi bao năm
Giọt nước mắt thương dân, dân mình phận long đong"
(Nước mắt cho quê hương - Ca khúc Trịnh Công Sơn)
Rồi,
" Mẹ ngồi ru con đong đưa võng buồn năm qua tuổi mòn. Mẹ nhìn quê hương nghe con mình buồn giọt lệ ăn năn. Giọt lệ ăn năn đưa con về trần tủi nhục chung thân..."
(Ca dao mẹ - Ca khúc Trịnh Công Sơn)
Hay từ một hiện thực vừa mới xảy ra trong thành phố :
" Ghế đá công viên dời ra đường phố.
Người già co ro chiều thiu thiu ngủ.
Người già co ro buồn nghe tiếng nổ.
Em bé lõa lồ khóc tuổi thơ đi..."
(Người già em bé - Ca khúc Trịnh Công Sơn)
Và với Phúc âm buồn, Tuổi đá buồn v..v... Tiếng hát Trịnh Công Sơn như một sợi dây vô hình đã nhanh chóng nối kết những tâm trạng riêng, những số phận riêng của người dân đô thị miền Nam vào trong một tâm trạng chung, một số phận chung. Tâm trạng và số phận này là gì ? Đó là tâm trạng và số phận của những con người Việt Nam đã từng bị lừa, họ là nạn nhân của bạo lực vô minh, mà niềm tin và hy vọng của họ đã trải qua bao lần bể dâu. Đối với họ, mọi khát vọng, mọi dự phóng đều là hư vô. Họ đang vẫy vùng trong một cảnh sống đầy máu xương, mất mát tang tóc của một cuộc chiến tranh phi lí mà lối thoát chưa một lần thấy lóe sáng ở cuối con đường hầm cuộc đời tăm tối đó.
Tôi cho rằng, bằng một khả năng cảm nhận sắc bén bẩm sinh anh đã dễ dàng biến những cảm nhận riêng của mình thành của chung. Bằng một phương cách biểu hiện rất khéo do ở chỗ sử dụng những ẩn dụ, những hình tượng rất mới, anh đã gây được những ấn tượng mạnh cho người nghe, và đặc biệt khi cần phải đối kháng với một thực tại mà anh không thể nào vãn hồi được, anh dựng một thần thoại. Nhờ thế mà tiếng nói của anh dễ dàng lọt vào lòng người, và dễ dàng được đồng cảm.

" Người nằm co như loài thú khi mùa đông về
Người nằm yên không kêu than buốt xương da mình
Từng tiếng người nhiều tiếng người gọi hoài giữa đêm
. . .
Người còn đó nhưng lời nói rơi về chân đồi
Người ngồi đó nhưng trong tim máu tuôn ra ngoài
Nhuộm đất này nhuộm cho hồng hạt mầm trót vay."
(Phúc âm buồn - Ca khúc Trịnh Công Sơn)
Bằng một định hướng, cũng như một phương pháp sáng tác như đã được trình bày ở trên, Trịnh Công Sơn đi vào giai đoạn "Ca khúc da vàng". Ở đây, những cảm nhận về quê hương và thân phận đã trở nên mãnh liệt hơn, quặn thắt hơn và đôi khi dẫn đến sự phẫn nộ. Từ Ngày dài trên quê hương, Người con gái Việt Nam, Đại bác ru đêm cho đến Tôi sẽ đi thăm, Tình ca người mất trí, Hãy nói giùm tôi, Gia tài của mẹ... đã nói lên điều đó.
Ta hãy nghe :

" Người nô lệ da vàng ngủ quên ngủ quên trong căn nhà nhỏ đèn thắp thì mờ ngủ quên quên đã bao năm ngủ quên không thấy quê hương. Bao giờ đập tan gông cùm xiềng xích vô hình trói buộc ta bao giờ đập tan gông cùm xiềng xích vô hình trói buộc tự do..."
(Đi tìm quê hương- Ca khúc Da vàng)
"Hãy sống giùm tôi hãy nói giùm tôi hãy thở giùm tôi thịt da này dành cho thù hận cho bạo cường cho tham vọng của một lũ điên..."
(Hãy nói giùm tôi - Ca khúc Da vàng)
Tiếng hát đã tạo nên những hiệu quả trong đời sống xã hội thật sự. Nó đã làm cho một số không ít thanh niên nhìn ra cái bản chất phi nhân và tàn bạo của cuộc chiến khiến họ đi đến hành động trốn lính hay đào ngũ. Dưới con mắt của những người cầm quyền thuộc chế độ cũ Sơn là một kẻ phá hoại tinh thần chiến đấu của anh em binh sĩ.
(...)Từ 1968 cho đến những năm 1969, 1970, 1971, thỉnh thoảng người ta lại nghe phong thanh đâu đó về một giải pháp hòa bình cho Việt Nam. Rồi tất cả lại tắt ngấm. Người dân Việt khát khao hòa bình như kẻ đi trong sa mạc khát đến cháy bỏng cổ họng mà ốc đảo xanh tươi hiện ra trước mặt mình chỉ là những ảo ảnh. Cuộc chiến khốc liệt cứ tiếp diễn. Phong trào đấu tranh hòa bình Việt Nam ở các đô thị lại bùng lên mãnh liệt. Đặt biệt là phong trào thanh niên sinh viên học sinh, bây giờ lập trường đã kiên định : Mỹ cút, ngụy nhào, hòa bình đến. Tôi, kẻ viết bài này đã quyết định, đã chọn lựa đứng vào phong trào đó. Nhưng chọn lựa nào cũng có những đau đớn. Tôi phải đứng về phía dân tộc theo cách của tôi. Để có hòa bình thì dân tộc phải có quyền tự quyết, mà quyền tự quyết thì phải đấu tranh mà dành lấy chứ chẳng ai cho. Nhưng càng đấu tranh thì càng chồng chất đau thương. Những kẻ dễ quên thì dễ sống, còn tôi thì không thể quên điều này. Và phải nói một cách thành thật rằng chính những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn trong những năm đầu tiên đã đánh thức trong tôi tình tự dân tộc, sau đó thì tôi chọn một thế đứng quyết liệt hơn, âu cũng là do tánh khí riêng của mình. Nhưng về sau tôi vẫn thường tiếp tục hát những ca khúc phản chiến của anh. Vì tôi thấy nó mang lại cho đầu óc mình sự " mát mẻ ", khi mà mình không thể thường xuyên chịu đựng mãi một sự căng thẳng sắt máu. Và đôi khi nó cũng khiến cho mình mơ mộng về một nền hòa bình có thể thế này mà không phải thế kia... Đó là con đường tự do đi đến hòa bình mà không phải đổ máu. Tôi sợ máu!

Trịnh Công Sơn trong giai đoạn cực đoan này thì sao ? - Vẫn trung thành với con đường mà tự anh đã vạch ra từ trước, anh tiếp tục đi, đi theo tiếng gọi của dân tộc mà anh đã nghe thấy theo cách của mình. Có khi anh đi một cách mạnh dạn hơn, và anh kêu gọi, anh hô hào. Và tinh thần của anh, tùy mỗi hoàn cảnh khác nhau mà hy vọng, hào hứng hay tuyệt vọng... hoặc ngược lại. Kết quả là hai tập ca khúc kế tiếp nhau ra đời Kinh Việt Nam (1968), Ta phải thấy mặt trời (1970) (anh tự ấn hành dưới tên NXB Nhân Bản). Ở giai đoạn này anh cùng xuống đường với thanh niên, sinh viên, học sinh. Anh hát :

"Nơi đây tôi chờ.
Nơi kia anh chờ.
Trong căn nhà nhỏ mẹ cũng ngồi chờ.
Anh lính ngồi chờ trên đồi hoang vu.
Người tù ngồi chờ bóng tối mịt mù...
... Chờ tin mừng sông chờ núi cũng chờ mong
Chờ trên vừng tráng mẹ thắp lên bình minh
Chờ khô nước mắt chờ đá reo ca
Chờ áo cơm nuôi cho những trẻ con không nhà
Chờ ngày Việt Nam thống nhất cho những tình thường vỡ bờ.
(Chờ nhìn quê hương sáng chói - Kinh Việt Nam)
Hay :
" Rừng núi dang tay nối lại biển xa
Ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà..."
(Nối vòng tay lớn - Kinh Việt Nam)
Hoặc :

" Ta bước bước đi, bước bước hoài, trên quê hương dấu yêu này.
Còn bao nhiêu người nhìn nhau hôm nay.
Đôi mắt bóng tôi trái tim nghi ngại còn ai quanh đây
chưa góp tiếng nói chưa nối lại nắm tay..."
(Chưa mòn giấc mơ - Ta phải thấy mặt trời)
 

fruit NHO

Active Member
Và:
" Huế - Sài Gòn - Hà Nội quê hương ơi sao vẫn còn xa. Huế - Sài Gòn - Hà Nội bao nhiêu năm sao vẫn thờ ơ. Việt Nam ơi còn bao lâu những con người ngồi nhớ thương nhau..."
(Huế - Sài Gòn - Hà Nội - Ta phải thấy mặt trời)
Sang đến năm 1972, cục diện chiến tranh trên toàn miền nam vô cùng ác liệt, một cuộc " Việt Nam hóa chiến tranh " dưới mắt người Mỹ. Bằng con đường phản chiến lấy trái tim nhân ái mà giải quyết mọi điều, trên cơ sở tình tự dân tộc, Trịnh Công Sơn đến đây thì đã mệt nhoài, và tuyệt vọng. Anh cho ra đời tập ca khúc Phụ khúc da vàng, mà anh đã cho rằng đáng lẽ không nên viết. Đây là tập ca khúc cuối cùng của dòng nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn.
Anh hát để kết thúc cho một nỗ lực vô vọng của chính mình :

"...Đường anh em sao đi hoài không tới
Đường văn minh xương cao cùng với núi
Đường lương tâm mênh mông hoài bóng tối
Trái đau thương cho con mới ra đời..."
(Hãy nhìn lại - Phụ khúc da vàng)
*
Sau 1975, có một sự im lặng đè nặng lên những ca khúc phản chiến từng một thời nổi tiếng lẫy lừng của anh. Và chính anh cũng giữ sự im lặng cho đến ngày qua đời.

Nếu hôm nay ta nhìn nhận và đánh giá cao những tình khúc của anh, chúng ta không thể nào bỏ qua được những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn. Vì chính những ca khúc này đã tạo cho anh có được một tầm cỡ như ngày nay, cho dù những tình khúc của anh vốn đã rất tài hoa.

Có người sẽ cho rằng không phải nói đến những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn nữa, vì chữ thời đã qua rồi. Nghĩa là không còn thời tính nữa. Cũng có người sẽ góp ý thêm rằng các ca khúc phản chiến của anh vốn lừng khừng, dễ dãi, nếu không muốn nói là ngây thơ, hoặc thiếu logique lịch sử, chính trị hay là cái gì đó...

Tôi thì cho rằng, đến ngày nay, qua những trò dâu bể của cuộc thế, thời tính của những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn vẫn còn. Nó còn trong ý nghĩa của tiếng nói lương tâm và nhân ái. Qua tác phẩm của mình chưa từng ai nói dến lương tâm và lòng nhân ái đậm đà như anh. Tiếng nói này còn phải luôn luôn được tôn trọng trước khi ta bắt tay vào một công việc, mà công việc đó sẽ có ảnh hưởng trên hàng vạn, hàng triệu sinh linh.

Con đường anh đã chọn và anh đã đi suốt cuộc đời mình là một con đường không dễ chọn. Nếu từ thời điểm hôm nay để nhìn lại thời bấy giờ thì rõ ràng là anh đã đi giữa hai làn đạn. Mà bất kỳ khi nào một viên đạn từ một hướng nào đó có thể kết liễu cuộc đời anh. Anh có lý của riêng anh. Là một nghệ sĩ chân chính, anh đã chọn cái logique của quả tim, và bằng trực giác nghệ thuật anh đã dựng nên sự nghiệp của mình. Đừng bắt anh phải làm chính trị, cũng đừng bắt anh, làm một " con buôn thời thế ". Anh sẽ không dại gì đầu cơ, cũng như đầu tư tài năng và tâm huyết của mình cho một cuộc chơi ngắn hạn như vậy, mà kết cục thua lỗ là một điều tất nhiên. Anh chỉ biết sống và rung cảm bằng một quả tim trung thực, và dùng tài năng của mình để nói lên điều mà con tim muốn nói. Vì anh là Trịnh Công Sơn, một nghệ sĩ lớn, một nghệ sĩ của mọi người, và sống giữa mọi người. Chính sự ngưỡng mộ của mọi người đối với anh lúc anh còn sống, và đoàn người đông đảo tiễn đưa anh lúc anh qua đời đã nói lên rằng trong sứ mệnh nghệ thuật đối với dân tộc anh đã thành công.

Trong những ca khúc phản chiến anh còn để lại, phản chiến chẳng qua là một cách gọi, đừng chấp, vẫn có nhiều ca khúc có thể hát đơn hay đồng ca vào thời bấy giờ.

Hãy tiếp tục hát lên những khúc hát về lương tâm và lòng nhân ái của anh. Vì hơn bao giờ hết, hôm nay chúng ta vẫn đang cần đến lương tâm, lòng nhân ái cho những việc lớn lẫn việc nhỏ. Và chúng ta đừng bao giờ nhìn về bi kịch con người bằng một cái nhìn đơn giản.

Vỹ Dạ, 25-4-2001
Bửu Chỉ
 

Tra cứu điểm thi

Phần mềm mới

Quảng cáo

11223344550983550000
Top