Appassionata
Member
Chuyện “gu” âm nhạc: ai cao, ai thấp?
06:47' 21/04/2006 (GMT+7)
Để tiếp tục câu chuyện về hiện tượng “lệch pha” giữa tai nghe của công chúng và sản phẩm âm nhạc của các nhạc sĩ ở bài trước: Nhạc sĩ và công chúng, ai bảo thủ hơn ai?, không gian so sánh bây giờ chuyển từ trước/sau - tức là giữa sự bảo thủ của công chúng và sự “tiên tiến” của nhạc sĩ - sang trên/dưới - tức là giữa trình độ cao của nhạc sĩ (hay ca sĩ) và sự “thấp kém” của công chúng!
Việc giải thích hiện tượng “lệch pha” trong tương quan trước/sau bằng quy luật vận hành của cơ chế thị trường nghe ra còn xuôi tai, nhưng giải thích hiện tượng “lệch pha” trong tương quan trên/dưới dù theo cung cách nào cũng có màu sắc khôi hài. Một nhạc sĩ khí nhạc có thể viết ra những tác phẩm đi trước thời đại và hứng chịu sự ghẻ lạnh hay bài bác của công chúng là chuyện thường xảy ra và cũng dễ hiểu, vì những tác phẩm đó thuộc về một hệ thẩm mỹ mới, một hệ thẩm mỹ chỉ manh nha trong tiến trình phát triển tinh thần của xã hội. Phải một thời gian sau, khi hệ thẩm mỹ phôi thai ấy đã trở thành khí hậu tinh thần của toàn xã hội thì những tác phẩm vượt thời gian (theo nghĩa đi trước thời đại chứ không phải theo nghĩa sống lâu) mới được công nhận rộng rãi và giá trị sáng tạo của chúng mới trở thành kinh điển.
Hiện tượng “lệch pha” này đôi khi được dùng để biện hộ cho nhiều trường hợp thất bại của các sản phẩm thị trường nhưng lại bị chính thị trường ghẻ lạnh và chê bai. Những sản phẩm này ra đời để phục vụ cho thị hiếu công chúng đương thời và đã được cân đong đo đếm cho vừa với thị hiếu. Nhưng thị hiếu thì luôn luôn đỏng đảnh khó chiều nên chuyện thành công hay thất bại đôi khi có tính chất xổ số, ngay cả khi việc tiếp thị đã được làm khá chu đáo. Cũng hệ thẩm mỹ ấy, cũng dòng nhạc ấy, cũng cung cách nghe/nhìn đại chúng ấy … nhưng sản phẩm lại lạc lõng và nằm yên trên kệ đĩa cho bụi phủ. Biết giải thích làm sao khi chúng vốn chỉ là những sản phẩm thị trường chứ không có chuyện đi trước thời đại gì hết? Thì cứ việc đổ cho tai nghe của công chúng ... thấp, còn “gu” của nhạc sĩ (hay ca sĩ) thì cao!
Trong tương quan trước/sau, thời gian sẽ làm trọng tài. Có không ít những tác phẩm tự cho rằng đi trước thời đại đã bị thời gian chứng minh là chẳng có chuyện đi trước gì hết mà chỉ là đi lạc đường thôi. Còn trong tương quan trên/dưới, hầu như không có thước đo nào có thể dùng để khẳng định chiều cao của tác phẩm so với tầm nhận thức thấp của công chúng là hơn kém nhau bao nhiêu. Chính vì thế mà việc tự phong chiều cao cho tác phẩm là dễ dàng nhất, chẳng ai kiện cáo gì được, lại thoả mãn lòng tự ái vốn đã rất cao của nghệ sĩ.
Câu chuyện này khá gần với ngụ ngôn “Con cáo và chùm nho” của nhà hiền triết Hy Lạp cổ Aesop: Con cáo với mãi không tới chùm nho bèn chê rằng chùm nho còn xanh nên không thèm ăn. Còn trong thị trường âm nhạc, nhiều nhạc sĩ chê “gu” thẩm mỹ của công chúng thấp quá nên không với tới được tầm sáng tạo của tác phẩm mà mình muốn cống hiến. Chẳng khác nào bảo rằng các Thượng đế mà mình tình nguyện phục vụ có tai nghe nhạc hơi bị … kém nên không thưởng thức được tiếng đàn giọng hát của mình!
Tất nhiên, không có lửa thì sao có khói, “gu” âm nhạc của công chúng quả là có hơi … thấp nếu dùng thước đo trình độ phổ thông. Bởi vì công chúng là một khối thính giả đông đảo bao gồm cả những tai nghe được giáo dục thẩm mỹ đầy đủ cũng như giới bình dân mà quá trình phổ cập kiến thức âm nhạc trong phạm vi toàn xã hội đã đến những kết quả đáng buồn. Lấy con số trung bình cộng về trình độ thưởng thức âm nhạc của khối thính giả đông đảo ấy (nếu lượng hoá trình độ này bằng các trắc nghiệm) thì khái niệm “thấp” là có thể hiểu được. Nhưng còn “gu” của các nhạc sĩ (hay ca sĩ) thì có gì để bảo rằng cao? Hay chỉ vì nhạc sĩ (hay ca sĩ) có thể ký xướng âm một ca khúc ngon lành hơn bất kỳ ai trong đám công chúng đông đảo sẽ mua đĩa và mua vé xem show diễn của họ?
Nếu nói rằng chỉ cần biết solfège hay có một thanh quản tốt là tự khắc có trình độ thẩm mỹ âm nhạc cao thì câu chuyện đã chuyển sang một chủ đề khác. Viết ca khúc - thậm chí viết khí nhạc – cũng như hát, là một nghề: nghề viết nhạc hay nghề hát. Làm nghề giỏi đôi khi chỉ là việc thủ đắc một số kỹ năng chuyên môn nào đó của nghề chứ không hẳn là đã có trình độ thẩm mỹ cao, huống chi chưa có gì đảm bảo rằng những nhạc sĩ (hay ca sĩ) tự cho mình ở tầm cao so với công chúng nghe nhạc đã là những người làm nghề giỏi mà thường chỉ là những tay nghề tạm “sạch nước cản”, thậm chí chỉ là những thợ thủ công hạng xoàng. Công chúng nhạc Việt vốn dễ dãi và vốn có tai nghe trung bình cộng “thấp” nên tương quan so sánh trên/dưới, cao/thấp ở trường hợp này mang màu sắc khôi hài là vậy!
Soạn: AM 756171 gửi đến 996 để nhận ảnh này
Hơn nữa, chúng ta gần như không có sinh hoạt lý luận/phê bình âm nhạc ở bất kỳ cấp độ nào, cả cao cấp lẫn thấp cấp, việc chê bai cao/thấp, trên/dưới, trước/sau … gì cũng chỉ là chuyện nói cho vui, vì tự ái hay sĩ diện của cả công chúng lẫn nghệ sĩ. Cũng như việc tự phong hay tấn phong lẫn nhau không có một chuẩn mực nào cả nên dù có là “diva”, là “ngôi sao”, “nữ hoàng nhạc nhẹ” hay “vua nhạc nặng” ..v..v.. cũng chỉ góp chút màu mỡ riêu cua cho đời sống âm nhạc lâu nay vẫn bị phê phán là buồn tẻ và trì trệ mà thôi!
Xét cho cùng thì việc so sánh cao/thấp, trên/dưới … theo kiểu nào cũng vô hại. Vui cả làng mà!
06:47' 21/04/2006 (GMT+7)
Để tiếp tục câu chuyện về hiện tượng “lệch pha” giữa tai nghe của công chúng và sản phẩm âm nhạc của các nhạc sĩ ở bài trước: Nhạc sĩ và công chúng, ai bảo thủ hơn ai?, không gian so sánh bây giờ chuyển từ trước/sau - tức là giữa sự bảo thủ của công chúng và sự “tiên tiến” của nhạc sĩ - sang trên/dưới - tức là giữa trình độ cao của nhạc sĩ (hay ca sĩ) và sự “thấp kém” của công chúng!
Việc giải thích hiện tượng “lệch pha” trong tương quan trước/sau bằng quy luật vận hành của cơ chế thị trường nghe ra còn xuôi tai, nhưng giải thích hiện tượng “lệch pha” trong tương quan trên/dưới dù theo cung cách nào cũng có màu sắc khôi hài. Một nhạc sĩ khí nhạc có thể viết ra những tác phẩm đi trước thời đại và hứng chịu sự ghẻ lạnh hay bài bác của công chúng là chuyện thường xảy ra và cũng dễ hiểu, vì những tác phẩm đó thuộc về một hệ thẩm mỹ mới, một hệ thẩm mỹ chỉ manh nha trong tiến trình phát triển tinh thần của xã hội. Phải một thời gian sau, khi hệ thẩm mỹ phôi thai ấy đã trở thành khí hậu tinh thần của toàn xã hội thì những tác phẩm vượt thời gian (theo nghĩa đi trước thời đại chứ không phải theo nghĩa sống lâu) mới được công nhận rộng rãi và giá trị sáng tạo của chúng mới trở thành kinh điển.
Hiện tượng “lệch pha” này đôi khi được dùng để biện hộ cho nhiều trường hợp thất bại của các sản phẩm thị trường nhưng lại bị chính thị trường ghẻ lạnh và chê bai. Những sản phẩm này ra đời để phục vụ cho thị hiếu công chúng đương thời và đã được cân đong đo đếm cho vừa với thị hiếu. Nhưng thị hiếu thì luôn luôn đỏng đảnh khó chiều nên chuyện thành công hay thất bại đôi khi có tính chất xổ số, ngay cả khi việc tiếp thị đã được làm khá chu đáo. Cũng hệ thẩm mỹ ấy, cũng dòng nhạc ấy, cũng cung cách nghe/nhìn đại chúng ấy … nhưng sản phẩm lại lạc lõng và nằm yên trên kệ đĩa cho bụi phủ. Biết giải thích làm sao khi chúng vốn chỉ là những sản phẩm thị trường chứ không có chuyện đi trước thời đại gì hết? Thì cứ việc đổ cho tai nghe của công chúng ... thấp, còn “gu” của nhạc sĩ (hay ca sĩ) thì cao!
Trong tương quan trước/sau, thời gian sẽ làm trọng tài. Có không ít những tác phẩm tự cho rằng đi trước thời đại đã bị thời gian chứng minh là chẳng có chuyện đi trước gì hết mà chỉ là đi lạc đường thôi. Còn trong tương quan trên/dưới, hầu như không có thước đo nào có thể dùng để khẳng định chiều cao của tác phẩm so với tầm nhận thức thấp của công chúng là hơn kém nhau bao nhiêu. Chính vì thế mà việc tự phong chiều cao cho tác phẩm là dễ dàng nhất, chẳng ai kiện cáo gì được, lại thoả mãn lòng tự ái vốn đã rất cao của nghệ sĩ.
Câu chuyện này khá gần với ngụ ngôn “Con cáo và chùm nho” của nhà hiền triết Hy Lạp cổ Aesop: Con cáo với mãi không tới chùm nho bèn chê rằng chùm nho còn xanh nên không thèm ăn. Còn trong thị trường âm nhạc, nhiều nhạc sĩ chê “gu” thẩm mỹ của công chúng thấp quá nên không với tới được tầm sáng tạo của tác phẩm mà mình muốn cống hiến. Chẳng khác nào bảo rằng các Thượng đế mà mình tình nguyện phục vụ có tai nghe nhạc hơi bị … kém nên không thưởng thức được tiếng đàn giọng hát của mình!
Tất nhiên, không có lửa thì sao có khói, “gu” âm nhạc của công chúng quả là có hơi … thấp nếu dùng thước đo trình độ phổ thông. Bởi vì công chúng là một khối thính giả đông đảo bao gồm cả những tai nghe được giáo dục thẩm mỹ đầy đủ cũng như giới bình dân mà quá trình phổ cập kiến thức âm nhạc trong phạm vi toàn xã hội đã đến những kết quả đáng buồn. Lấy con số trung bình cộng về trình độ thưởng thức âm nhạc của khối thính giả đông đảo ấy (nếu lượng hoá trình độ này bằng các trắc nghiệm) thì khái niệm “thấp” là có thể hiểu được. Nhưng còn “gu” của các nhạc sĩ (hay ca sĩ) thì có gì để bảo rằng cao? Hay chỉ vì nhạc sĩ (hay ca sĩ) có thể ký xướng âm một ca khúc ngon lành hơn bất kỳ ai trong đám công chúng đông đảo sẽ mua đĩa và mua vé xem show diễn của họ?
Nếu nói rằng chỉ cần biết solfège hay có một thanh quản tốt là tự khắc có trình độ thẩm mỹ âm nhạc cao thì câu chuyện đã chuyển sang một chủ đề khác. Viết ca khúc - thậm chí viết khí nhạc – cũng như hát, là một nghề: nghề viết nhạc hay nghề hát. Làm nghề giỏi đôi khi chỉ là việc thủ đắc một số kỹ năng chuyên môn nào đó của nghề chứ không hẳn là đã có trình độ thẩm mỹ cao, huống chi chưa có gì đảm bảo rằng những nhạc sĩ (hay ca sĩ) tự cho mình ở tầm cao so với công chúng nghe nhạc đã là những người làm nghề giỏi mà thường chỉ là những tay nghề tạm “sạch nước cản”, thậm chí chỉ là những thợ thủ công hạng xoàng. Công chúng nhạc Việt vốn dễ dãi và vốn có tai nghe trung bình cộng “thấp” nên tương quan so sánh trên/dưới, cao/thấp ở trường hợp này mang màu sắc khôi hài là vậy!
Soạn: AM 756171 gửi đến 996 để nhận ảnh này
Hơn nữa, chúng ta gần như không có sinh hoạt lý luận/phê bình âm nhạc ở bất kỳ cấp độ nào, cả cao cấp lẫn thấp cấp, việc chê bai cao/thấp, trên/dưới, trước/sau … gì cũng chỉ là chuyện nói cho vui, vì tự ái hay sĩ diện của cả công chúng lẫn nghệ sĩ. Cũng như việc tự phong hay tấn phong lẫn nhau không có một chuẩn mực nào cả nên dù có là “diva”, là “ngôi sao”, “nữ hoàng nhạc nhẹ” hay “vua nhạc nặng” ..v..v.. cũng chỉ góp chút màu mỡ riêu cua cho đời sống âm nhạc lâu nay vẫn bị phê phán là buồn tẻ và trì trệ mà thôi!
Xét cho cùng thì việc so sánh cao/thấp, trên/dưới … theo kiểu nào cũng vô hại. Vui cả làng mà!