mỗi ngày một truyện

fruit NHO

Active Member
Phục Thù


Hai cô gái cùng rất đẹp. Một cô nổi trội hơn chút ít nhờ gương mặt nhẹ nhõm, tươi như hoa. Nếu chỉ có vậy thì cũng chẳng có gì để bàn. Đằng này, hai cô cùng yêu đắm đuối một chàng. Dĩ nhiên chàng đó thật điển trai và tài giỏi.







Ở cái thị xã nhỏ như bàn tay này hẳn cũng chỉ có vài chàng trai như thế. Kết cục, cô có gương mặt tươi như hoa đã thắng cuộc. Ngày cưới của họ được tổ chức sau đó ít ngày. Ngày cưới của cô này đã trở thành đám tang tinh thần của cô kia. Cô gái thua cuộc không đi dự lễ cưới. Ngày hôm đó cô khóa trái cửa, ở lì trong phòng. Cô lấy con dao nhọn khắc vào cái chân đèn bằng gỗ cẩm lai hai chữ: Phục thù. Đáng sợ thật ! Sự phục thù của đàn bà sẽ chẳng ai lường trước được điều gì. Đón đường đón chợ, dao phay, đòn gánh, tạt axít, đánh thuốc độc, thậm chí bắt cóc con tin. Trời ơi ! Khi cơn tam bành của họ nổi lên thì không chuyện gì họ từ nan. Khiếp đảm quá ! Khi tình địch đã khắc cốt ghi xương hai tiếng "Phục thù" thì hãy dè chừng.







Một năm. Hai năm. Rồi năm năm. Vẫn chưa động tĩnh gì. Có vẻ như con hổ mang, con sói xám còn đang thu mình mai phục. Cô gái mặt hoa đã lần lượt sinh ba đứa con. Cô gái kia vẫn chưa hề tung ra một miếng đòn nào. Kể cũng lạ. Cô ta đã quên thù cũ hay là đang giấu mình trong lối chơi hiểm độc ? Việc này không ai đoán nổi. Có một điều mà tất cả mọi người đều thấy là mặc dù không ít những kẻ đến quỳ thụp xuống dưới chân cô để cầu hôn nhưng lòng cô thì vẫn giá băng. Hình như điều cô quan tâm nhất chỉ là những bài thể dục mạnh ở nhà thi đấu. Cô tập không bỏ buổi nào, nắng cũng như mưa. Sức lực của cô ngày một sung mãn trông thấy. Vâng ! Sức lực ! Điều hết sức cần thiết cho một kẻ đang nuôi chí phục thù rửa hận.



Mười năm trôi qua. Vẫn chưa hề động tĩnh. Bây giờ ngoài việc luyện tập cơ bắp để có một cơ thể nở nang săn chắc, cô còn tìm đọc rất nhiều sách về tâm sinh lý con người. Hỡi ôi ! Thật đáng gờm cho kẻ mang chí phục thù mà lại văn võ song toàn như cô. Mà hình như không chỉ có thế, cô còn quan tâm thường xuyên đến cả sắc đẹp của mình nữa. Nào củ đậu, dưa leo, sữa tắm... Không có thứ gì là cô không sử dụng để làm cho làn da tươi tắn mịn màng. Quả là ở cô có nhiều bí ẩn khôn lường.







Lâu quá, đúng vào cái lúc mọi người đã tưởng rằng cô nản chí thì buổi sớm hôm ấy cô vùng dậy. Cô lấy tay phủi lớp bụi bám vào hai chữ "phục thù" trên cái chân đèn. Một lúc sau, cô đi tới bàn trang điểm. Cô thoa phấn, kẻ mày, đánh môi rất kỹ. Người phụ nữ nào mà chẳng vậy. Dù có chuẩn bị dao búa trong huyết chiến, thậm chí dù biết sẽ phải chết thì họ vẫn điểm tô nhan sắc để được chết đẹp. Âu cũng là một ưu điểm mà có lẽ cánh mày râu còn lâu mới có được.







Đã vào tuổi "băm" mà trông cô rực rỡ như một ngôi sao màn bạc. Cơ thể cô lại cân đối và dũng mãnh như một nữ cầu thủ bóng chuyền. Một nhà tâm lý học đã từng nói người phụ nữ đẹp nhất không phải ở tuổi dậy thì mà chính là ở tuổi ba lăm quả là quá chính xác đối với cô trong lúc này.







Cô bỏ mấy thứ vào cái sắc rồi đi ra cửa, nhằm hướng nhà vợ chồng cô gái mặt hoa bước tới.



Cô bấm chuông.



Cửa mở.



Chủ nhà vô tư dẫn cô vào nhà.



Cô nhún nhảy bước, mặt mày tươi tỉnh như không có chuyện gì.







Vợå chồng cô mặt hoa hình như đang thu dọn đống rác rưởi mà cả tuần qua bận rộn họ không kịp động tay. Cô nhếch mép cười khi nhìn thấy khuôn mặt lốm đốm tàn nhang bắt đầu chảy xệ của bà chủ nhà. "Nào, vẻ mặt tươi như hoa của mày biến đâu rồi ?" - Cô thầm đắc chí.







Cô gái tiến đến ngồi cạnh bà chủ mặt hoa. Ông chủ thì ngồi ngay đối diện.



- Dạo này sống khá chứ ? - Khách quay sang khẽ hỏi.



- Cũng... tạm... nhưng... - Bà chủ ấp úng.







Chủ, khách ngồi đã yên vị. Cô gái ngước cặp mắt đen đến nao lòng đưa về phía ông chủ làm gã cứ ngồi đực mặt ra. Giời ơi ! Sao lại có cặp mắt tình tứ đến thế, cứ như thiêu, như đốt. Mắt của vợ gã bây giờ chỉ còn một màu tối xám và nhoèn gỉ thôi. Kìa ! Cô gái còn cười với gã nữa chứ. Gã sực nhớ là ngày xưa cô ấy cũng từng mê mình. Cặp môi dày của gã run lên bần bật. "Sao cô ta còn đẹp đến mê mẩn thế nhỉ. Thân thể cứ săn chắc như thiếu nữ" - Gã thầm rên lên.







Suốt gần nửa giờ đồng hồ, gã chỉ nhìn dán vào mỹ nhân chứ chẳng dành một giây khắc nào cho cái cơ thể đang ọp ẹp của cô vợ đã ba con của gã. Đúng là một con công và một con gà mái già đứng bên nhau. Mỗi lúc mặt gã lại thêm nghệt ra như ngỗng... Cô gái nhìn vẻ mặt si tình của gã đàn ông, bật cười thành tiếng. Tiếng cười như muốn nói rằng: "Anh đã thấy chưa ? Đã thấy tôi là thế nào chưa ? Thế mà ngày ấy anh đã chọn nó chứ không chọn tôi. Đại ngu. Bây giờ thì cứ việc rỏ dãi ra nhé".










Một lúc sau, cô gái cầm cái sắc đứng dậy. Cô hít hà một cách khoan khoái. Cô sung sướng đến đỏ bừng mặt. "Chà ! Thôi thế là đủ. Quá đủ !" - Cô thầm kêu lên đắc chí.







Cô vếch mặt chào hai vợ chồng rồi ngúng nguẩy ra về.







Tới nhà, việc đầu tiên là cô ném cái chân đèn có khắc hai chữ "Phục thù" vào bếp than. Thế là xong. Hơn mười năm nung nấu cho một cuộc phục thù, cô chính là người chiến thắng. Cô hả hê phấn chấn, luôn mồm nói đi nói lại mấy câu: "Đã đời quá đi mất ! Đã quá !".

:)) :)) :)) :)) ;-) =)) =)) =))
 

fruit NHO

Active Member
Thương nhớ Hoàng Lan



Trần Thùy Mai







Tôi sinh ra dưới một mái chùa. Nghe kể rằng sư phụ tôi khi ấy còn trẻ, một hôm đi ngang bỗng động tâm hỏi: "Mô Phật, sao sau chùa lại phơi tã lót?". Nghe chuyện đời cha tôi, thầy bảo: "Hãy nhớ ngày này. Nếu có cơ duyên, mười năm sau ta sẽ trở lại". Trở về thầy bỏ tăng viện, lên một ngọn núi hẻo lánh trong rú xa, dựng mấy nếp nhà cổ. Từ ấy, thầy ẩn tu, hiếm khi xuống núi.







Lớn lên, tôi giống cha như đúc và rất được mẹ yêu chiều. Cha tôi mắt sáng, mũi cao, tiếng nói trầm ấm, tính tình hiền hòa trung thực. Khi còn là một chú tiểu đầu để chỏm, người đã nổi tiếng thông minh, mười lăm tuổi chép rành kinh chữ Hán. Rồi vì học giỏi, được cử làm giáo sư ở trường Trung học Bồ Ðề, một trường phổ thông tư thục của Giáo hội. Lúc người sắp được phong Ðại Ðức thì gặp cô bé nữ sinh tinh nghịch, có đôi mắt hút hồn, đôi môi đầy đam mê và cái tính thích gì thì làm cho bằng được. Ban đầu, cô bé chỉ định quấy phá chơi để thử bản lĩnh của thầy. Nhưng rồi tình yêu là lửa, chính người muốn đốt lại cháy. Cả chùa ngẩn ngơ khi người thanh niên đạo hạnh vòng tay thưa trước sư cụ trụ trì: "Yến bệnh nặng đã bốn tháng rồi, sợ rằng cô ấy chết. Thầy dạy con tu hành để cứu chúng sinh. Nay con có thể cứu một sinh linh, sao lại khước từ". Cha tôi rời chùa, cô Yến khỏi bệnh rồi hai người thành vợ thành chồng. Ông bà tôi để lại một ngôi nhà, cha tôi cho dỡ đi, xây vào chỗ đó một ngôi chùa tư. Ðã không bỏ đời theo đạo được, thì ông đem đạo về giữa đời. Sau khi đã có con, ông vẫn ăn chay, mặc áo nâu và tụng kinh sớm chiều. Có lần mẹ tôi đi chợ mua một xâu ếch, những con ếch theo phản xạ cứ chắp hai chân trước vái lia lịa. Một bà đi ngang bảo mẹ tôi: "Mấy con ếch lạy khéo không thua thầy M.H". Rồi bà cười hả hả: "Ði tu mà chẳng chót đời, làm thân con ếch cho người lột da". Tính mẹ tôi mau nước mắt, cứ vừa đi vừa khóc thút thít cho đến lúc tới nhà. Tối đó bà kèo nhèo mãi, năn nỉ mãi cha tôi tội gì không để tóc, ngả mặn, làm người trần cho sướng cái thân. Tu kiểu này, người ta nói không chịu nổi. Cha tôi chỉ cười, dường như chẳng để tâm. Cả đời người không tranh giành với ai mà như có phép thần thông, chạm vào đâu thì phất lên đến đó. Cơ sở làm hương trầm của người càng phát triển, mẹ tôi càng béo đẹp ra thì lời đàm tiếu của thiên hạ càng rần rần. Cuối cùng, chẳng hiểu vì sao, mẹ bỗng đột ngột bỏ đi mất tăm...







Cô ruột tôi giận lắm bảo: "Mẹ mi là con yêu tinh, khi trước đã phá đời tu của cha mi, chừ lại phá luôn đời tục của ổng". Ai cũng khuyên đăng báo tìm nhưng cha tôi chỉ nói: "Ðừng". Ông không trách móc gì, nhưng có lẽ ông buồn, tiếng tụng kinh đêm khuya nghe chừng khắc khoải. Chao ôi, với những con thuyền khắc khoải ấy, kiếp nào cha mới đến Tây Phương?







Cơ sở làm hương từ đó phó mặc cho cô tôi. Cô tôi cho chặt cây, nhổ cỏ, sửa sang lại cho khu vườn sáng sủa: "Thiệt là hư sự, ai đời lập chùa mà lại trồng hoàng lan trong sân. Mùi hoàng lan là mùi ma, hèn chi ma chướng nó phá cho như thế ni".







Tôi dân dấn nước mắt nhìn người ta chặt cây hoàng lan, cành lá vứt bừa bãi trên mặt đất. Ngày xưa, gội đầu xong mẹ tôi thường hái hoa giấu vào bối tóc cho thơm. Bây giờ người đã đi, hoa cũng không còn...







Năm tôi mười tuổi, có vị Ðại Ðức trên núi về thuyết pháp ở chùa Diệu Dế. Tôi đi theo cô tôi đến nghe. Khi trở về tôi xin xuất gia. Cha tôi bảo: "Kinh sách ở đây, chuông mõ ở đây, con còn đi đâu?". Tôi chỉ lắc đầu...







Nơi thầy tôi ẩn tu là Bích Vân am - am Mây Biếc. Mười năm khai sơn, thầy đã cùng đồ đệ trồng hơn hai chục mẫu bạch đàn và ba ngàn giò phong lan đủ loại. Các sư huynh dạy tôi chăm hoa, tưới cây mỗi sáng. Buổi chiều đi học ở trường Nam Giao. Năm mười lăm tuổi, tôi bắt đầu chướng tính. Sư huynh hạch tôi: "Bạch thầy, Ðăng Ninh trốn học, la cà ở quán cà-phê Tím. Người quanh đó ai cũng chê cười, họ nói cô ruột Ninh làm hương giàu có, cúng dường nhiều tiền nên thầy thả cho Ninh tha hồ tự tung tự tác". Tôi ức, lầm lì không nói, thầy cũng không quở. Tính thầy rất nghiêm, không mấy khi la rầy mà đồ đệ ai nấy tuân lời răm rắp. Chỉ riêng với tôi, không hiểu sao thầy đặc biệt khoan thứ. Sợ thầy phạt, đợi lúc sắp vào tụng kinh, tôi biện bạch: "Bạch thầy, ngày xưa cha con thường bảo: tu trên núi dễ, tu giữa chợ mới là khó. Không ở giữa đời làm sao hiểu đời đục mà tránh?". Thầy hỏi: "Ai bảo con là đời đục? Ðời không đục, không trong". Tôi hụt hẫng, không hiểu ý thầy định nói gì?







Tu trên non bây giờ thật ra cũng không phải dễ. Thầy tôi tránh đời vào núi sâu, nhưng rồi vườn lan Mây Biếc nổi tiếng quá nên người trần lại kéo lên thưởng ngoạn. Thứ bảy, chủ nhật, học trò đạp xe lác đác trắng trên con đường mòn tới thảo am. Mấy cô nữ sinh nhỏ tuổi mê hoa ngẩn ngơ ngắm bông súng tím trong hồ, chạy vào đến tận hiên, chỗ thầy ngồi viết sách. Thầy không quở, cũng không ngẩng lên nhìn. Một cô bé chạy đến gần tôi, nhìn làn sương li ti mà tôi đang xịt lên những chồi đang đơm nụ. Cô hỏi tôi tên hoa, tôi giảng: "Ðây là giống Tiểu Hồ điệp, nghĩa là bươm bướm nhỏ. Em thấy không, trông xa chấp chới như đàn bướm cải mầu vàng". Cô chìa hai bàn tay với những ngón búp măng, hứng sương. Tôi cau mày: "Này, đừng nghịch". Cô bé cứ đùa với những bụi nước, chẳng để ý lời tôi. "Anh cứ tưới đi, em cũng là Lan". Tôi cáu, xịt cho nước rơi ướt cả tóc, cả áo cô bé. Mấy cô bạn cười rúc rích, khi về có cô còn nói vọng lại: "Con Lan hên quá, gặp chú tiểu vừa đẹp trai, vừa quậy". Tôi tủm tỉm cười. Sư huynh tôi cáu kỉnh: "Mấy con Thị Mầu đời nay quá quắt lắm. Bay không biết quyến rũ sư tăng là tội đọa địa ngục hử?". Tôi cự: "Người ta chỉ đùa thế, có gì mà gọi là quyến rũ".







Từ đó, vài ba hôm một lần, Lan lại đến giúp tôi tưới hoa. Tôi dạy cho cô biết về phong lan, đấy là cả một thế giới còn đa dạng hơn thế giới người. Phượng Vĩ đỏ rực, Tuyết Ðiểm thì trắng, Vũ Nữ thì như đang múa trước gió. Lan phụng phịu: "Hoa nào cũng có tên riêng, chỉ em không có". Tôi nhìn khuôn mặt cô, đôi mắt trong trẻo với cái miệng cười hồn nhiên như trẻ thơ. "Vậy tôi đặt cho cô một cái tên. Tên cô là Tinh Khôi".







Thầy biết tình thân giữa tôi và Lan. Sư huynh không vui lòng, thầy chỉ bảo: "Không can gì". "Bạch thầy, người này có bạn thì người kia có bạn, rồi con gái kéo đến đầy thảo am, còn cái thể thống gì nữa?". Thầy gật đầu. Chiều lại, tôi mài mực hầu thầy, thầy đem cho tôi xem bộ tranh mười bức vẽ mục đồng chăn trâu: "Ðây là thập mục ngưu đồ, cũng là quá trình tu học của một con người. Trâu không là trâu, mà chính là cái tâm ta đó". Tôi động lòng, hỏi: "Bạch thầy, con xem bức vẽ cuối cùng, không còn trâu chẳng còn người, chỉ còn trăng soi. Vậy cớ gì phải sống trong dây trói. Ngày xưa Tuệ Trung Thượng Sĩ là bậc ngộ đạo mà không kiêng rượu thịt, vì chay mặn chỉ là hình tướng bên ngoài, không can hệ đến sự giác ngộ bên trong". Thầy cười: "Ðúng, con ạ, với bậc đắc đạo là thế. Nhưng khi ta còn là một người phàm, thì cũng như con trâu kia, phải có sợi dây buộc, có người chăn dắt. Ðến khi cái tâm vững rồi, sáng rồi mới có thể như trâu đen thành trâu trắng, không ràng không buộc, chẳng những nhởn nhơ trên cỏ xanh mà còn bay lên đến chín tầng mây". Tôi vái thầy mà thưa: "Con hiểu rồi, nhưng nhà chùa chẳng thể xua đuổi ai. Từ mai con xin thôi không giữ vườn lan nữa".







Mấy hôm sau, Lan thấy sư huynh ra tưới vườn, còn tôi thì chẻ củi. "Anh không thích phong lan nữa sao?". "Không. Muôn hồng nghìn tía, chẳng qua cũng chỉ để nhìn trong chốc lát. Một đời tôi chỉ riêng nhớ hoa hoàng lan". Tôi giảng cho cô bé biết hoa hoàng lan cánh mảnh mai, vàng như mầu chim hoàng yến. Thuở trước, cứ sắp rằm, mồng một, các bà hàng hoa lại đến mua, họ gói hoa trong lá chuối, từng gói nhỏ xinh xinh tỏa thơm ngây ngất. Lan bảo: "Thích ghê, em chưa thấy bao giờ". Ừ, loài cây ấy có lẽ giờ đây đã tiệt giống rồi hay sao, nhiều lần theo sư huynh đi chợ mua bông chuối, tôi để ý tìm mà không thấy nữa. Tôi lớn lên lòng bâng khuâng như thiếu vắng một thứ gì, cứ mơ hồ nhớ nhớ, thương thương...







Cuối năm, anh em tôi kẻ kéo, người đẩy, chở phong lan xuống phố đổi gạo. Ông chủ tịch hội hoa cảnh hài lòng lắm khi thấy những giò mũm mĩm với chồi xanh đầy nụ. Ba bao gạo lớn được bưng ra. "Cha ơi, con có làm một ít bánh trái cây để cúng dường". Tôi nghe tiếng quay lại, sững người vì thấy Lan. Ông chủ tịch âu yếm bảo: "Cúng dường thì phải cung kính. Con phải tự lên chùa lạy Phật mà dâng". Tôi hãi hồn, vội nói: "Thôi thôi, khỏi phiền nữ thí chủ. Nhận ngay ở đây". Lan bật cười, lại cái cười tinh khôi. Rồi Lan nhìn tôi buồn thiu: "Sao lâu nay anh không ra vườn? Em lên chùa, biết anh trong bếp mà mấy chú không cho vào. Riết rồi em buồn không muốn đến nữa".
 

fruit NHO

Active Member
Mấy buổi sau, tôi theo các bạn cùng lớp vào quán. Lan ngồi ở đó, sau chiếc bàn con bên cửa sổ. Các bạn tôi ai cũng nhìn về phía Lan còn cô bé chẳng nhìn ai, cứ lặng lẽ một mình. Ngồi ở một bàn xa mà tôi như thấy cả bầu trời hoàng hôn tím, tím ngát ngoài kia đang in trong đôi mắt Lan. Mãi đến khi chúng tôi ra về, Lan mới ngoái nhìn, ánh mắt thơ ngây mà não nùng. Bỗng dưng đỏ mặt, rồi tôi thấy hoảng sợ vì mình đã đỏ mặt...




truyện này có trong tuyển tập văn mới 5 năm đầu thế kỉ ....................






Một người con gái chiều nào cũng ngồi ở quán Tím, chẳng bao lâu đã thành đề tài để bọn con trai bàn tán.







"Con Lan sữa tươi trông xinh vậy chứ nó mắc bệnh, bệnh sợ đàn ông. Ðếch thằng nào đến gần được, nó tránh như tránh tà". "Không phải đâu, nó giữ giá để chờ lấy Việt kiều, thằng Hùng ở Cali về ngày nào cũng trực ở nhà nó". "Giữ giá cái gì, nó ưa thằng Quắn chạy bàn ở cà-phê Tím. Tao thấy nó ngồi một bàn với thằng Quắn, khóc rưng rức". Tôi im lặng, một lát sau mới bảo: "Khó tin". "Ở đời chuyện gì mà chẳng có thể xảy ra" Bạn tôi nói, vẻ ông cụ non - Chiều qua chính mắt tao thấy nó chạy ra sau quầy đưa bức thư cho thằng Quắn".







Ðạp xe về đã đến quá lăng Tự Ðức, tự nhiên tôi bứt rứt không chịu được. Tôi quay xe, đạp về nhà Lan. Mưa phùn lướt thướt trên con đường về Bao Vinh xa tắp. Mẹ Lan hỏi: "Nhà chùa có việc gì mà nhắn cháu lên? Thấy Quắn về nhắn, tôi cho cháu đi ngay rồi". Tôi tái mặt, không kịp chào, đạp xe đi như tên bắn. Tim tôi dội thình thịch vì âm vang những lời của sư huynh khi Lan mới lên thảo am lần đầu: "Cô gái này đẹp đẽ thanh tú nhưng đuôi mắt dài quá, môi mỏng, cổ cao, tai nhỏ. Ðấy là tướng hồng nhan mệnh yểu..." Trời nhập nhoạng tối, tới Nam Giao. Nhìn dáo dác hai bên đường, tình cờ thấy Quắn và Lan cùng ngồi trong quán ốc. Quắn gọi rượu, đang ép Lan uống. Lan lắc đầu. Quắn cố nài. Tôi đi vào, đấm mạnh vào mũi Quắn. "Ðồ lừa đảo. Từ nay chừa cái thói dỗ gái đi". Quay sang Lan, tôi nạt "Ði về!". Không biết Lan có bị một thứ thuốc mê gì không, mặt ngây ngây như bị bỏ bùa. Tôi chở Lan đi. Quắn biết tôi có võ Thiếu lâm nên đành chịu phép, hậm hực, chùi máu mũi nhìn theo, cái nhìn của con thú mất mồi...







Trên đường về, Lan tỉnh lại, gục mặt vào lưng tôi khóc: "Em nhờ Quắn chuyển đến anh nhiều thư, anh có nhận được không?". Tôi cau mặt: "Em khờ lắm, sao lại đi với thằng Quắn?". "Quắn bảo em uống vài chén cho ấm rồi lên đàn Nam Giao chờ Ninh đến". "Em đừng quên, tên em là Tinh Khôi. Ðừng dại dột để bọn lưu manh làm nhơ bẩn". Nước mắt Lan chảy thấm qua chiếc áo lam của tôi, thấm vào đến da thịt. Dừng xe, tôi ngồi xuống vệ cỏ bên đường. Lan ngồi bên tôi. "Ðêm nào cũng nằm mơ thấy anh dắt em đi thăm vườn phong lan. Mình về trồng lan trong sân nhà em đi, có thích hơn không?". Tôi không trả lời, ngắt những cọng cỏ, vò nát trong đôi tay run run. Trên kia, trăng sáng quá, tròn và rực rỡ như chiếc mâm vàng giữa trời. Bỗng nhiên lòng tôi miên man nhớ những câu chuyện cha tôi vẫn kể ngày xưa... "Em có thích nghe chuyện cổ tích không?". "Thích". Tôi kể cho Lan nghe chuyện người tử tù đội chiếc mâm vàng đầy nước đi từ cổng hoàng cung vào trước ngai vua mà không sánh ra ngoài một giọt, Lan nghi ngờ: "Sao có người làm được như thế?". Tôi gật đầu: "Ngày ấy, nhà vua cũng đã hỏi như vậy. Vị thiền sư trả lời: "Bệ hạ đã hứa nếu y làm được thì sẽ tha tội chết. Vì lẽ sống chết của y, nên dù việc khó vô cùng mà y vẫn chăm chăm làm bằng được. Nay nếu bệ hạ cầu giải thoát cũng như người này cầu sống, thì việc tu hành dù khó mấy cũng có thể vượt qua". Lan ngước nhìn tôi, lần đầu tiên tôi nhận ra trong hai cái giếng êm như nhung của mắt cô bé những tia sáng ương ngạnh lạnh lùng. "Em hiểu rồi. Anh xem tu hành là chuyện sinh tử của anh. Vậy nếu em lại xem anh là chuyện sinh tử của em thì sao? Anh và em, ai đi trọn đường, ai bỏ cuộc?". Tôi bảo: "Em nói gì thế? Chuyện sống chết mà nghe cứ như là trò chơi sấp ngửa của trẻ con". Lan cười... Bàn tay nhỏ nắm lấy tay tôi, ngón thon vuôn vuốt như cánh hoa ngậm sữa. Vẻ đẹp này có phải phù du? Vẻ đẹp này là sắc hay là không? Chỉ thấy ngợp vì trăng. Trăng sáng quá. "Thôi, về đi em". Tôi đạp xe, trước mặt tôi chập chờn lấp lóa những con đường. Những mê lộ giữa đạo và đời, giữa ma và Phật...







Việc lộn xộn ở quán ốc chẳng mấy ngày đã đồn đến chùa. Cô tôi biết, tốc lên ngay. Tôi bảo: "Cô đừng lo. Chẳng có chuyện gì đâu". "Không có lửa, sao có khói, ¡n ốc, đánh lộn, giành gái. Thế còn gì là tu hành? Tau mà gặp con ma nữ đó, tau tước từ dưới tước lên". Tôi ngẩn người một lúc rồi hiểu ra, không nín được cười. Cô bực tức: "Cháu tưởng chuyện gì cũng cười là xong sao?"







Quả là chuyện không thể cười mà xong. Mấy hôm sau, gia đình Lan mời tôi về.







"Con ma nữ" đã uống hai mươi viên thuốc ngủ, may sao nhà biết được chở đi cấp cứu. Mẹ Lan chắp tay lạy tôi như lạy Bồ Tát: "Bác biết tính con Lan lắm, từ nhỏ nó đã nói là làm, đã làm là làm tới cùng. Sợ e cứu thoát lần này, nó lại tự sát lần nữa. Con cứu nó cho bác đi con". Tôi cuống quýt: "Bác bảo con làm sao được?". Con cứ giả vờ ừ đi, bây giờ nó mới lớn, tính còn ngông cuồng, vài ba năm nữa chững chạc rồi tự nhiên nó hiểu ra". Ông chủ tịch hội hoa cảnh mắt đỏ au, nhìn tôi chờ đợi một lúc rồi bảo vợ. "Nói như bà cũng khó. Chú Ninh đây tướng mạo khôi ngô, trước sau rồi sẽ có phước được che lọng vàng. Lẽ nào vì con mình mà để người ta mang tai mang tiếng". Tôi thở dài: "Cháu đi tu không phải là mong lọng vàng che đầu. Chỉ vì nguyện giữ thân trong sạch để tụng cho mẹ cháu một nghìn lần kinh Thủy Sám". Nhớ tới mẹ, tôi bất giác đau đớn trong lòng, đứng dậy đi...







Tôi về chùa, từ ấy không đi đâu. Thầy bảo: "Sao con bỏ học?". Tôi nói: "Suối ở xa, con muốn ra triền núi đào giếng". Tôi tự đày mình trong những nhát cuốc trên sỏi đá, đêm về tụng kinh, vẫn đôi khi chợt nghe tiếng mình khắc khoải. Có lúc nửa đêm chợt tỉnh, thấy thầy ngồi bên giường, lâm râm niệm chú. Tôi hốt hoảng vùng dậy: "Bạch thầy". Thầy tôi bảo: "Con giật mình, nói mê luôn, hất tung cả chăn". Tôi nói: "Con tỉnh rồi. Rước thầy đi nghỉ, con xin ra bệ Phật niệm Cầu An". Thầy lặng lẽ một lúc, rồi bảo tôi: "Tâm không an, có cầu cũng vô ích". Tôi gật đầu thú nhận. Bao nhiêu đêm, cứ chợp mắt là thấy Lan hiện ra, mảnh dẻ, thanh thoát, đầu đội chiếc mâm vàng sóng sánh nước đi thẳng đến bờ vực. Tôi nghe tiếng thét của nàng vang động cả giấc mơ, nàng nhào xuống rơi thẳng vào không gian mênh mông như chiếc lá lìa cành trước gió. "Thầy ơi, nếu vào Niết bàn mà phải đạp lên một chiếc lá, Phật có làm không? Xin thầy cho con hay, trời đất nặng hơn hay chiếc lá nặng hơn?". Thầy nhìn vào mắt tôi: "Chỉ có con tự trả lời được thôi. Ngày mai con hãy về, cứ nhìn thẳng vào nghiệp duyên mà tự quyết định lòng mình". Tôi lắc đầu: "Thầy quên sao? Con đã thề khi nào đào xong giếng mới xuống núi".







Ra xuân, đường lên núi khô ráo. Hai tay tôi ướt bùn đỏ, những giọt nước đầu tiên đã ứa ra từ lòng đất sâu. Tôi chạy về chùa, định vào trình thầy nhưng người đang làm lễ. Có người thí chủ dâng hương trong bệ Phật, mùi trầm mới thơm thơm trong không gian.







Ðang dội nước rửa tay, tôi nghe có người bước đến. "Chú Ninh!".







Tôi ngẩng lên. Mẹ của Lan. "Bác lên chùa cầu cho em đi bình an. Có cái này, em nó gửi lại...". Bà đưa cho tôi một cái túi nhỏ, rồi vừa quay đi vừa đưa khăn lau mắt.







Những dòng chữ trong thư, mảnh mai và run run như những cánh lan.







"Bốn trăm ngày chờ anh ở quán Tím, cuối cùng em cũng hiểu ra là mình thua cuộc. Ðã đi mà chẳng tới, lẽ ra thì phải chết. Nhưng em chết thì anh làm sao yên lòng đi trọn con đường tu. Vì vậy, em đã quyết định lấy chồng xa xứ. Trong cái túi này là cây hoàng lan con, em nguyện tìm cho anh bằng được rồi mới ra đi. Em vẫn nhớ lời anh nói, một đời anh chỉ thích hoàng lan...







Người ta cứ bảo là em khôn, lấy ông Việt kiều đi Tây đi Mỹ cho sướng chứ theo chi chú tiểu trọc đầu. Nhưng đi Tây đi Mỹ không phải là chí nguyện của em. Lấy một người mình không thương, đến một nơi xa lạ với em còn khổ hơn là chết. Xin anh hãy tụng cho em một lần kinh cầu siêu thoát, một lần thôi...".







Bất giác, tôi òa khóc. Nước mắt theo nhau lăn trên má tôi như ép cho hết những dòng tục lụy cuối cùng. "Cứ khóc đi con" - Thầy vỗ về khi thấy tôi luống cuống che mặt - Thầy chưa nghe nói gỗ đá thành Phật bao giờ". Tôi nức nở: "Bạch thầy, thầy có cho con trồng cây hoàng lan không?"







Thầy bảo: "Cỏ cây vô tội, sao mình không thể bao dung?". Rồi một tay dắt tôi, một tay cầm túi cây đến bên góc vườn, thầy tự mình trồng xuống.







Tôi tưới cây bằng nước giếng chùa. Hoàng lan lớn lên, năm này qua năm khác, nở hoa vàng mong manh. Mong manh như tất cả những gì đẹp trên thế gian.







Tôi cầm lòng thôi thương, thôi nhớ.
 

fruit NHO

Active Member
Yêu thật sự






Hoàng Anh Tú






"Không phải phép thử nào cũng là một kết quả đúng. Nhưng trong tình yêu nên có những phép thử để biết rằng ta có thể đã sai…"







Hoàng thích cái cách Nguyên phập phồng cánh mũi nghiêng nghiêng nhìn mình như thế. Lúc đó, trông Nguyên nhóc tì vô cùng. Hoàng cứ chăm chăm nhìn vào hai cánh mũi ấy mà không ngưng lại nổi cái cảm giác vui đến tức ngực của mình. Buổi chiều Chủ Nhật là như thế. Cứ khi Nguyên bước vào căn phòng của Hoàng là những thực tại cuộc sống lại mờ nhoà và biến mất khỏi tâm trí của Hoàng. Có những Chủ Nhật mưa và có cả những Chủ Nhật nắng. Nắng hay mưa không phải là một vấn đề cần phải nghĩ khi có Nguyên ở bên. Nhưng nó lại là chất xúc tác để mỗi ngày chủ nhật trôi qua lại càng thêm ý nghĩa gấp nhiều lần hơn.







Ngày nắng, Nguyên nằm co khoanh tròn trong những ô vuông nắng chiếu qua ô cửa sổ. Ngày mưa, Nguyên lại đứng chìa tay ra ngoài song cửa để hứng những giọt ranh. Nguyên có một sở thích là đặt tên cho tất cả những gì đang diễn ra xung quanh mình. Đó cũng là lý do mà cuộc sống của Hoàng có thêm nhiều người bạn đến thế. Từ chiếc tất Ui Chao đến cái áo Va Mũi, từ con cá mang tên Móm đến con sâu róm mang tên Cút Đi. Mỗi con vật, sự vật và cả những buổi chiều chủ nhật như thế này đều có những cái tên. Để chẳng lúc nào quên được Nguyên. Ngay cả khi Hoàng ở bên Zin - bạn gái và là vợ sẽ cưới của Hoàng. "Tụi mình chỉ thế này thôi, nhé Hoàng". Không biết bao nhiêu lần Nguyên nói vậy sau mỗi câu chuyện về chị ý – Zin Mũi Đỏ. Đến cả bạn gái của Hoàng, Nguyên cũng không tha, Nguyên đặt tên, Zin Mũi Đỏ. Cứ thế, cứ thế cả hai đi qua những buổi chiều chủ nhật.







Căn phòng trên tầng tư của một khu tập thể cũ kỹ mà Nguyên hay hát: "Anh! Em đã yêu anh từ lâu. Anh! Em đã yêu anh lầu tư" tràn trề nữ tính trong những buổi chiều như thế. Cũng có lúc Cá Ươn – anh ý của Nguyên – cũng ngáp ngắn ngáp dài trong câu chuyện của Nguyên với Hoàng. Bạn trai và cũng là chồng muốn cưới của Nguyên được Nguyên đặt nickname là Cá Ươn. "Bởi anh ý lười kinh khủng. Lười yêu em." Và chốt hạ bằng một câu: "Nếu anh Hoàng không yêu được một người như Nguyên thì anh Hoàng cũng y hệt anh ý." Cái lối tự trào vốn có của Nguyên. Và quả thật, rất rõ ràng, qua cái nhìn của Nguyên, khi ấy mọi sự vật hiện tượng mới căng nhựa sống được. Cứ thế, cứ thế cả hai đi qua những buổi chiều Chủ Nhật. Không một Chủ Nhật nào lặp lại của chủ nhật nào. Miên man. Và khác hẳn.







Zin bao giờ cũng thế. Bao giờ cũng muốn mọi sự phải thật rõ ràng, phải thật minh bạch. Trong khi có nhiều điều không thể rõ ràng ra được. Luôn luôn Hoàng có cảm giác như là Zin chất vấn, hỏi cung mình vậy. Cảm giác đó khiến Hoàng khó chịu vô cùng. Nhưng với Nguyên thì không. Nguyên không bao giờ hỏi Hoàng đi đâu, làm gì. Nguyên luôn để Hoàng tự nói ra. Đó phải chăng cũng là lý do khiến Hoàng muốn ở bên Nguyên nhiều hơn là một buổi chiều chủ nhật? Và với Zin thì ít dần đi. Những nụ hôn lười biếng và mang tính chất hội nghị. Có nghĩa là gặp: Hôn chào nhau. Về: Hôn tạm biệt. Đôi lúc: Hôn như lời cảm ơn khách khí, xã giao. Tần số lần gặp nhau cũng ít dần. Hoàng nghĩ về Nguyên nhiều hơn khi ở bên Zin. Nhiều hơn.
 

fruit NHO

Active Member
Bắt đầu từ bao giờ nhỉ? Từ một vài tin nhắn qua lại giữa Nguyên và Hoàng. Về một thứ tình yêu ngoài tình yêu. Bắt đầu bằng một ngày cho một đời. Một ngày yêu nhau. Người yêu một ngày. Hai đứa bồng bềnh đi suốt đêm. Nhắm hờ mắt là thấy Nguyên co ro ngồi sau xe Hoàng. Những con đường mùa đông và những ngọn đèn vàng ấm áp. Từ một ngày cho một đời thành một ngày cho mỗi tuần. Ngày Chủ Nhật. Cả hai đều không lý giải nổi tại sao mình yêu nhau nhiều đến thế và nhanh đến thế. Bên Nguyên, Hoàng cảm thấy thật dễ chịu và thoải mái. Không như bên Zin. Bên Nguyên, Hoàng thấy tràn ngập tình yêu. Trong khi bên Zin thì ngoài tình yêu còn trách nhiệm với gia đình Zin, còn trăm thứ bà dằn có tên và không có tên. Bên Nguyên thì tất cả chỉ là Hoàng và Nguyên. Là Chủ Nhật. Như thế một tuần chỉ có mỗi ngày Chủ Nhật là đáng nói vậy. Như thể mỗi đời chỉ có mỗi Nguyên là con gái vậy. Sòng phẳng mà nói: Hoàng thấy mình yêu Nguyên nhiều hơn yêu Zin. Nhưng vẫn thương Zin. "Mình cứ xô vào nhau như Chí Phèo Thị Nở vậy, Hoàng nhỉ? Em thấy có lỗi với chị ý và cả với Cá Ươn." Hoàng trầm ngâm. Thương Zin. Chủ Nhật ấy bị sứt đi một chút. Nguyên về sớm với Cá Ươn để Hoàng qua gặp Zin. Mẻ một chút ngày Chủ Nhật ấy.







Hoàng đèo Zin đi qua một tấm gương. Thấy soi bóng hai người trong đó. Chẳng giống những người đang yêu nhau tẹo nào. Rời rạc. Trong gương, Nguyên ngồi sau xe Cá Ươn. Hai bên nhìn nhau. Im lặng. Zin khẽ thở dài. Hoàng khẽ kéo tay Zin ôm lấy eo mình. Bên trong tấm gương, Nguyên cũng chủ động ôm eo Cá Ươn. Như thầm nhắc nhau rằng tuần không chỉ có ngày Chủ Nhật.







"Không phải phép thử nào cũng cho ta một kết quả đúng. Nhưng trong tình yêu nên có những phép thử để biết rằng ta đã sai". Đó là câu chốt hạ của Nguyên. Hoàng chỉ im lặng. Nguyên bảo "Hoàng phải yêu chị ý nhiều hơn để em yêu Cá Ươn nhà em nhiều bằng như thế". Rồi Nguyên liệt kê ra 10 điều mà Zin mong muốn. Hoàng cũng liệt kê lại 10 điều mà Cá Ươn cần. Trao đổi. Đây cũng chẳng phải là lần đầu tiên hai người làm vậy nhưng dường như thời gian và công việc luôn không công bằng với Zin. Hoàng chưa bao giờ làm hết 10 điều Zin mong muốn mà Nguyên đưa ra. Nhưng Cá Ươn thì nhận được hết 10 điều. Hoàng nghĩ mãi. Có lẽ bởi Hoàng lười biếng thật? Hay vì Hoàng ích kỉ và vô tâm? Nguyên bảo: "Cứ dần dần thôi, từng bước từng bước…" Và Hoàng bắt đầu để ý nhiều hơn đến Zin theo hướng dẫn của Nguyên. Như một cuộc chiến đấu để giành giật ý nghĩa cần và đủ cho một tình yêu thực sự. Công bằng mà nói, mọi thứ cũng đã có thể cứu vãn được nếu như Hoàng không yêu Nguyên nhiều hơn yêu Zin, không ham muốn Zin giống như Nguyên. Là chỉ cho chứ không nhận, là chỉ yêu chứ không đòi hỏi trách nhiệm cũng như trăm thứ bà dằn khác trong một tình yêu có những dự định tiến tới hôn nhân.







Bắt đầu từ bao giờ nhỉ? Từ khi tình yêu của Hoàng và Zin đi vào ngõ cụt với những cuộc cãi vã triền miên. Đó là một thời kỳ khủng hoảng thường thấy của tình yêu. Zin trở nên nhiều chuyện và khiến Hoàng thấy mất tự do ghê gớm. Bức bối. Sự nhàm chán luôn khiên người ta bức bối. Nhất là với những người trẻ. Và với Hoàng thì điều ấy đặc biệt đáng sợ hơn. Nếu là bồng bột mà nói thì câu cửa miệng sẽ là: "Mình chia tay". Nhưng cả Zin và Hoàng đều không muốn như thế. Cho tình yêu một cơ hội nữa. Nguyên xuất hiện như thế. Khác hẳn Zin. Không ồn ào, không riết róng, không quá phức tạp để hiểu được. Nguyên là hiện thân của sự không đầu không cuối, tràn đầy nữ tính. Nguyên ghé vào cuộc đời của hoàng và từ từ nhen lửa cho Hoàng. Để yêu Nguyên và yêu Zin gấp nhiều lần hơn. Để hiểu Cá Ươn của Nguyên và để Nguyên có thể yêu Hoàng và yêu Cá Ươn gấp nhiều lần hơn. Nguyên và Hoàng bắt đầu tâm sự về những gì mình nghĩ trong từng hiện tượng, sự việc một. Thời gian ấy đi qua một cách ngọng nghịu vì cả hai còn lạ nhau. Cho đến khi thuộc nhau dần dần rồi thì những câu chuyện có Zin và Cá Ươn cũng ít đi dần. Nguyên cũng hỏi Hoàng nhiều hơn câu "Anh đã yêu chị ý nhiều hơn chưa?" Như thể sợ mất đi mối quan hệ này, Hoàng cũng chần chừ. Nguyên mỗi lúc một nhiều lên trong cuộc sống của Hoàng. Và dần trở nên quan trọng. Zin thì ít dần đi. Hoàng bỗng lo sợ nếu Hoàng yêu Zin nhiều hơn thì sẽ vĩnh viễn mất đi Nguyên. Và Hoàng chỉ im lặng mỗi khi Nguyên hỏi. Trong mắt Nguyên những lúc đó, lại ánh lên những tia buồn. Mong manh đến bật khóc.







Zin bật khóc: "Em mệt mỏi quá rồi! Sẽ không thể tiếp tục tình trạng này được nữa. Anh yêu vai diễn Nguyên của em nhiều hơn yêu con người thật của em rồi phải không?" Hoàng thở dài gật đầu xác định. "Anh muốn em luôn là Nguyên. Còn em?" Zin lắc đầu: "Với em thì anh lúc làm Hoàng hay lúc làm Cá Ươn luôn là một. Em đều yêu trọn vẹn và hết mình. Có điều, với mỗi thời điểm, em đều có những cách hành xử khác nhau. Với Cá Ươn, em đối xử như một người mình sẽ lấy làm chồng, còn đối với Hoàng, đó chỉ là một tình yêu không xác định". Hoàng lặng người đi. Liệu có phải Hoàng cũng chưa sẵn sàng để tình yêu đi đến hôn nhân nên Hoàng yêu Nguyên hơn là yêu Zin? Trong Hoàng như vừa đổ vỡ một điều gì đó.







Bắt đầu từ tin nhắn của Zin khi tình yêu của cả hai đi vào ngõ cụt: "Em muốn ngày mai mình yêu nhau như hai người mới toanh để cho tình yêu của mình có một cơ hội". Tình yêu một ngày xảy ra như thế. Và đẹp thật. Mới toanh. Hôm ấy, Hoàng tới đón Zin. Cố gắn để tạo ra cảm giác như thể lần đầu tiên hò hẹn vậy. Con đường tới nhà Zin vẫn như mọi khi. Hoàng quen từng cái ổ gà một. Gặp Zin, anh cũng không nhận ra. Zin mặc một bộ váy mới toanh. Một bộ váy mà Hoàng chưa từng thấy bao giờ. Zin xuất hiện. Cái cách xuất hiện cũng khác với Zin thường ngày. Không xưng hô là Zin- tên ở nhà nữa. Mà là tên thật: Hoàng Gia Nguyên. "Nguyên chào anh Hoàng ạ!". Đã từ lâu, Hoàng quen gọi Nguyên bằng cái tên yêu là Zin. Nghe lại tên thật bỗng thấy là lạ. Lạ thật. Phải chăng tình yêu của hai người suốt mấy năm qua cũng thế. Đã quá quen thuộc đến nhàm chán. Và hôm nay, vào vai Nguyên, Zin đang khác mình đi để thử yêu lần nữa. Hôm ấy, không vào lại những quán quen, không đi lại những đường cũ, không nói lại những câu chuyện nhàm tai. Tất cả đều mới toanh. Rất mới. Zin trong vai Nguyên thật lạ. Cuối buổi đi chơi, hai người hôn nhau dưới hiên nhà Nguyên (và cũng là Zin), nụ hôn cũng thật lạ. Đó là Hoàng cảm thấy vậy. Đêm ấy, Hoàng nhắn cho Zin: "Anh Hoàng yêu em Nguyên". Và sau tình yêu một ngày đó là Chủ Nhật mỗi tuần. Nguyên của Zin là một người khác hẳn. Nói như Nguyên đó là: "Một lối chơi khác hẳn khiến cho trận đấu trở nên kịch tính hơn." Mỗi chiều Chủ Nhật, Zin trong cái tên Nguyên lại tới căn phòng của Hoàng. Khác hẳn với Zin ngày thường, Nguyên của ngày Chủ Nhật tràn trề cuốn hút. Lại nhen lửa cho Hoàng. Để thứ Hai, gặp lại nhau, Zin lại trở về là Zin. Thật đến nhàm chán và mệt mỏi. vẫn là Zin với sự rõ ràng và minh bạch. Vẫn là Zin của "anh phải thế này, anh không được thế kia". Cần mẫn đến mức bối rối. Và Hoàng thấy mình là một Cá Ươn suốt một tuần trời. Chỉ có thể là Hoàng vào mỗi ngày Chủ Nhật. Zin cố gắng, cố gắng để Cá Ươn trở thành Hoàng. Còn ngược lại, Hoàng yêu Nguyên nhiều hơn. Với Zin thì ít dần đi. Hoàng chờ đợi ngày Chủ Nhật để được gặp Nguyên.







Hoàng ôm vai Zin: "Sao em không giống như Nguyên? Sao em không cứ luôn là em của mỗi ngày Chủ Nhật? Tại sao em cứ phải là Zin một cách khó chịu đến như thế? Anh muốn em hãy là Nguyên, hãy là em của mỗi ngày Chủ Nhật". Zin lắc đầu: "Nguyên có thể rất tuyệt vời nhưng Nguyên là khoảnh khắc em tạo dựng chứ không phải là con người thật của em".







Và bắt đầu từ bao giờ nhỉ? Từ cửa sổ tầng tư của khu tập thể cũ kỹ, Zin đi về. Hoàng nhìn theo và bỗng thấy không còn Nguyên nữa từ trong Zin…

Không phải phép thử nào cũng là một kết quả đúng. Nhưng trong tình yêu nên có những phép thử để biết rằng ta có thể đã sai…"
-----------> thik câu nì
 

fruit NHO

Active Member
Tình yêu mong manh



Cấn Vân Khánh







Đã có hàng lớp lớp nhà văn, nhà thơ, cả những triết gia muốn định nghĩa tình yêu và hình như họ đều thất bại. Tình yêu không thể định nghĩa được bởi bản chất nó có quá nhiều sắc thái và cũng rất mong manh.










Đã bao lần Quân cố gắng kiếm tìm một thời điểm, một không gian thích hợp nhất để nói với Như rằng anh không muốn tiếp tục nữa, nhưng càng ngày anh càng hiểu ra rằng sự kiếm tìm đó là rất khó. Nên anh trở nên trì hoãn ghê gớm. Ví dụ như lúc này.







Như đang ngồi trước anh. Mặt nghiêng nghiêng vì ánh nắng xéo qua ô cửa kính quán cà phê. Cô mặc một chiếc áo len mỏng khoác ngoài chưa cài hết khuy. Mái tóc dài đen nhánh phủ xuống bờ vai gầy guộc, gương mặt ngơ ngác xanh xao. Tất cả dấy lên trong anh cảm giác tội nghiệp, hơn là một niềm yêu thương. Tại sao thế nhỉ? Mình đã từng rất yêu cô ấy kia mà.







“Em này, anh quyết định rồi...”. Quân hắng giọng. Anh kìm mình khi thấy dáng Như xoay qua anh hốt hoảng. “Gì thế anh?”. Giá như giọng nói của cô ấy đừng trong trẻo thế. “Anh quyết định không đầu tư vốn vào công ty nữa. Đã có những mâu thuẫn xảy ra...”. “Vâng, tùy anh”. “Anh muốn nghỉ ngơi, anh định đi Nha Trang”. “Vâng”. Cô ấy không hỏi mình đi với ai, cũng không có quyền được đòi hỏi là sẽ đi cùng anh. Trong anh phút chốc dấy lên một cảm giác ngán ngẩm tột cùng. “Mình về đi”. Anh gọi người phục vụ tính tiền rồi ra bãi giữ xe. Như líu ríu sau anh. Anh chở cô ngang qua con đường hoa phượng nở hiếm hoi của Sài Gòn mà trước đây cô vẫn thích thú đòi anh chở qua. Nhưng anh đã đọc thấy sự mỏi mệt, thậm chí cả cam chịu trên gương mặt ấy.







Toàn, đứa bạn thân của anh, hiện là giảng viên Trường Đại học Thủy sản Nha Trang ra ga đón anh. Vừa thấy anh đã toét miệng cười hỏi: “Như đâu?”. Anh khoát tay: “Đi một mình tự do hơn”. “Tao đã dặn mày rồi, đi đâu chứ đi biển mà đi một mình là buồn muốn khóc đó”. “Vậy chứ mày thì sao? Sống ở biển một mình tưởng chết từ đời nào rồi chứ?”. Toàn cười ha hả: “Thế không biết là cuối năm nay tao cưới vợ à?”. Anh gật gù: “Thật là một tin tốt lành”. “Thế còn mày thì sao? Bao giờ cưới?”. Anh im lặng. Thật ra, anh đã có lúc mơ đến một gia đình yên ổn, để khỏi phải ngày ngày ra tiệm ăn cơm, khỏi mặc một chiếc sơ mi đến công ty còn mùi mồ hôi của ngày hôm trước, khỏi phải chật vật một mình với những viên thuốc mỗi lúc bệnh hoạn, ốm đau. Nhưng rồi, có một cái gì đó lại ngáng trở anh, khi công việc ngập đầu và anh phải giải quyết đến khuya rồi ngủ gục luôn bên tách cà phê uống dở, để sáng sớm hôm sau hoan hỉ với những ấp ủ mới, thành công mới. Những chầu nhậu, những cuộc vui ngẫu hứng, bất kể sáng trưa chiều tối của mấy nhân viên dưới quyền khiến anh vui vẻ xua đi căng thẳng dù đôi khi làm cho anh nôn thốc nôn tháo và thức trắng đêm với căn bệnh đau dạ dày. Chốt lại một điều sự tự do hấp dẫn anh hơn thảy và anh chưa sẵn sàng thay đổi cuộc sống mà anh đang sống. Hơn thế, liệu Như có thực sự là người mà anh muốn gắn bó cả cuộc đời?







“Nha Trang có gì thay đổi không?”. Anh ngồi sau xe Toàn, hỏi bâng quơ. “Như mày thấy đấy, vẫn xinh đẹp như ba năm về trước”. Anh nhìn những rặng dừa xanh thẫm nằm trải dài bên bờ cát trắng mịn trong hoàng hôn thành phố qua cặp kính đen, thấy lòng không khỏi xốn xang: “Cho tao về khách sạn nào mà ba bước có thể về với vua Thủy Tề”. Toàn quay đầu lại: “Sao? Mày chê căn hộ chật chội của tao à? Căn hộ ở Sài Gòn của mày chắc gì đã rộng rãi tiện nghi bằng?”. “Không. Lần này về, tao muốn được tĩnh tâm một chút, với lại còn bồ của mày nữa. Phiền lắm”. “OK, tùy mày đó. Nhưng không phải vì thế mà khi tao lên Sài Gòn mày tống tao ra vỉa hè đâu nhá. Tao không phải là sếp như mày nên không chơi sang được”. Anh vỗ vai thằng bạn lắm lời: “Tao hiểu mà. Mày hợp với nghề bán cháo phổi lắm đấy, thật không hổ danh giảng viên đại học”. Toàn xách va li cho anh lên tận phòng ở khách sạn rồi vẫy tay: “Có gì thì ới một câu, tao tới liền”. Anh ngả xuống giường, đệm êm ru khiến anh khoan khoái, anh mở máy điện thoại. Có ba tin nhắn đang đợi anh. Tin của Như. Những dòng chữ dài lê thê nội dung cái nào cũng như cái nào, rằng anh đã về đến Nha Trang chưa, anh có khỏe không, anh đang làm gì, em nhớ anh... Anh buông máy chạy vào buồng tắm xối nước lên tóc với cảm giác đã đời sau một ngày lắc lư trên tàu. Anh muốn quên...







Nha Trang về đêm vô chừng quyến rũ, anh đi dạo một mình trên phố rộng đèn điện giăng mắc sáng choang. Những quán cà phê hoa trổ đầy cổng mở nhạc êm ru, những gương mặt khách du lịch tươi vui, hớn hở. Và tiếng sóng, khi anh đứng trên bờ biển lắng nghe âm vang đại dương, thấy cuộc đời quả là kỳ diệu. Khoảnh khắc này, anh mới nhận ra, mình thật cô đơn. Mình có sai lầm không khi đi biển một mình thế này. Anh bắt đầu nghĩ đến Như, khi mà đi lướt qua anh là một đôi trai gái. Cô gái mặc một chiếc áo len có gam màu giống như chiếc áo len Như hay mặc. Một gam màu xanh trời nhạt điểm những nụ hoa tím ở cổ và tay áo. Anh đã từng chê là quá đơn điệu và tẻ nhạt. Nhưng hiện tại, Nha Trang đã làm cho anh nghĩ về cô. Anh điện thoại gọi cho Như. Chỉ một tiếng chuông reo cô đã nhấc máy. “Anh đây. Em khỏe chứ”. “Vâng, em khỏe”. Anh áp chặt điện thoại vào tai, dường như anh nghe thấy cả tiếng thở dồn của Như bên kia đầu dây. “Anh đã đi chơi nhiều chưa? Anh ăn tối chưa?”. “Rồi em”. “Anh nhớ mặc áo khoác nhé...”. Quân ừ hử. Vẫn những điệp khúc đó, mà cái anh cần, trong lúc này, không phải những lời quen thuộc ấy. Giá như, một lần thôi, cô nói rằng: “Em về Nha Trang với anh nhé”. Anh sẽ hoan hỉ biết bao. Thế có tàn nhẫn không nhỉ, để cô lặn lội một mình xuống đây. Khi mà trước đó anh có thể thừa khả năng kéo cô đi bất cứ nơi nào. Anh đang mâu thuẫn hay sao? Không. Anh cần Như mãnh liệt hơn. Nhưng Như vẫn là Như, không thay đổi. Anh đã từng yêu cô tha thiết ở cái tính nết nhu mì giản dị. Cô từng đến với anh sau những cơn say. Không quản ngại, cô pha nước ấm lau mặt cho anh, cởi tất, cởi giày cho anh, rồi ngồi ngay ngắn bên cạnh. Lần đầu anh xúc động, nhưng những lần kế tiếp, sự chu đáo lặng lẽ không một lời phàn nàn oán trách của cô làm cho anh bực bội, vì một điều gì mà chính anh không thể nào lý giải được. Tình yêu hai người phẳng lặng như một dòng sông không gợn sóng, như một đĩa hát tua đi tua lại phát nhàm. Quân không phải là người đa tình hay thích phiêu lưu vì xung quanh anh không thiếu những cô gái trẻ hấp dẫn. Nhưng nếu anh chia tay, Như sẽ nghĩ gì. Rằng anh là kẻ phản bội. Mà với Quân, sự phản bội là điều anh ghê tởm nhất. Nhưng cố gắng duy trì, thì anh lại mệt mỏi nhàm chán, lại trốn tránh, lại cảm thấy sợ hãi khi phải đối diện với chính mình. Hay chăng, anh sẽ nói thật với Như... Rằng hai người cần phải có một thời gian để xem xét lại
 

fruit NHO

Active Member
Quân tắt máy điện thoại. Anh ghé vào một quán bar gần khách sạn, cô gái phục vụ tiến đến rót rượu cho Quân. Khi cô ta cố ý ngồi sát Quân thì anh khoát tay tỏ vẻ từ chối. Anh gọi cho Toàn, thông báo vắn tắt rằng ngày mai anh quyết định trở về Sài Gòn, nếu rảnh thì qua gặp anh gấp khiến thằng bạn vàng cáu nhặng xị kêu anh là đồ khùng. Quân uống sạch ly whisky, thở dài: “Có lẽ nó nói đúng, mình khùng thật rồi”.







Tàu vừa đến ga Sài Gòn thì mưa đổ ập xuống. Quân kéo va li, đi như chạy trên con phố đông đúc rồi ghé vào một quán cà phê. Anh ngồi co ro đốt thuốc, lơ đãng nhìn lá vàng bay tơi tả qua ô cửa kính. Đúng lúc đó cửa mở, đứng sững trước anh là Như. Cô ướt lướt thướt trong chiếc váy trắng mỏng manh: “Sao em lại ở đây?”. Như bíu tay lên mặt bàn, nói bằng một giọng yếu ớt: “Em ra ga đón anh”. “Sao em biết anh về?”. Em gọi cho anh nhưng anh tắt máy, em gọi cho anh Toàn, anh ấy nói anh về... Em đã đợi anh ở ga suốt cả chiều nay... Khi nãy em nhìn thấy anh và gọi anh, nhưng không kịp...”. “Thế à?”. Quân nói bằng một giọng hờ hững, đến mức anh phải kêu trời, sao mình lại tệ thế, nhưng rồi anh đã lấy lại bình tĩnh. Anh gọi cho Như một ly sữa nóng. Hai người ngồi đối diện nhau. Quân không biết phải bắt đầu thế nào thì Như đã cất lời trước: “Anh Quân, em muốn nói với anh một chuyện...”. “Anh nghe đây”, “Em sắp đi xa...”. “Hả?”. Trong một giây Quân tưởng mình nghe lầm. “Em đi đâu?”. “Em đi Pháp. Mẹ của em đã lo xong giấy tờ cho em. Mẹ cần em. Em không nghĩ rằng tất cả lại chóng vánh thế. Em xin lỗi vì đã giấu anh...”.







Quân im lặng. Thế là xong. Khỏi phải nhức đầu nhức óc cho một cuộc chia tay vì chính Như chứ không phải là ai khác đã nói ra điều đó. Anh chợt nhận ra trong quãng thời gian hai năm yêu nhau chưa bao giờ anh để tâm đến gia đình của Như. Thậm chí, chưa bao giờ anh quan tâm cuộc sống của Như. Anh chỉ láng máng biết rằng ba mẹ Như chia tay nhau khi Như còn nhỏ và cô phải sống với bà ngoại. Thi thoảng anh đưa cô về và hai người chia tay nhau ở cầu thang khu chung cư cao tầng buồn bã. Quân nhìn sâu vào đáy mắt Như, anh thấy những giọt nước mắt long lanh trào ra. Anh nắm tay cô: “Em, đừng khóc”.







Như đưa Quân về khi mưa gần tạnh. Đến cửa, Quân nói khẽ: “Em về đi không muộn”. Như ngẩn ngơ một lúc rồi cô lên xe, nhưng vì tay không vững nên cô suýt ngã. Quân giữ lấy cô thật chặt: “Em có sao không?”. Như lắc lắc đầu: “Không...”. Rồi cô lên xe, phóng thẳng về con đường phía trước.







Quân nhìn theo. Anh không hiểu tâm trạng của mình. Như đang nghĩ gì? Phải chăng sự im lặng của anh càng làm cho Như vò xé vì cô đã đột ngột thông báo cho anh về chuyến đi của mình, đến mức anh không thốt được nên lời? Tội nghiệp cho Như, cô như bình pha lê trong trẻo đến tinh khiết đã đặt nhầm tình yêu cho một kẻ hời hợt như anh. Quân tra chìa vào ổ khóa và đổ vật xuống giường, một lúc sau không tài nào chợp mắt, Quân với lấy điện thoại bấm số máy Như , nhưng cô tắt máy. Lẽ nào Như đã ngủ? Hoặc cô đã chọn ngày hôm nay để chấm dứt tình yêu. Dường như cô hiểu, sự ra đi của cô sẽ rất khó để tiếp tục đắp xây tình cảm với Quân. Vì ngay cả khi cô sống gần anh, chưa bao giờ anh thực sự thuộc về cô. Và với Quân, anh cũng chưa bao giờ hình dung ra được, có một đêm thế này anh gần như thức trắng chỉ để gọi về một số máy mà chính anh cũng không biết, mình sẽ nói gì với chủ nhân của nó...




------------->Càng yêu thì càng thấy có được tình yêu thì khó mà mất tình thì quá dễ....
Mỗi người vì ngại chết mà sống.Mỗi người vì sợ mất tình mà cố giữ một lòng nhớ nhung.
Cuối cùng,tình yêu thương đối với cuộc sống không giữ nổi cuộc sống.Cuối cùng tình yêu không giữ lại người mình yêu...
 

fruit NHO

Active Member
Mưa










Hoàng Thảo






- Lại mưa nữa rồi, mưa gì mưa mãi!






- Thì mùa mưa mà em!







Hình như tôi không còn là tôi. Chỉ một cái nhìn cũng khiến tôi rùng mình. Một hơi thở cũng đủ quấn chặt lấy tôi kéo lại gần anh ấy. Mọi lời anh nói dù rất khẽ cũng làm tôi đau. Ngay cả những lúc anh im lặng uống cà phê, tiếng những viên nước đá lanh canh trong lòng cốc cũng khua vào lòng tôi những nhịp đập nghẹn thở. Anh kể toàn những chuyện vui khiến tôi không thể nhịn cười. Nhưng những tiếng cười ấy cũng làm tôi ray rứt mà anh không biết. Giá như anh đừng nói gì. Chỉ cần anh ngồi im thôi cũng đủ làm tôi ấm áp. Tôi lạnh không phải vì những cơn gió đêm mang theo hơi mưa. Những tiếng cười của tôi đang làm tôi tê tái.






Bỗng dưng những lần gặp nhau bình thường ở quán cà phê lại trở thành một niềm mong mỏi, những giây phút khuấy động nhịp sống đơn điệu hàng ngày của tôi, lấp đầy một khoảng trống âm ỉ ngày càng lớn trong đời sống. Tôi bỗng sợ ngày mai, khi anh ra đi, những ngày cũ sẽ lập lại, dài hơn, chậm hơn, trống vắng hơn. Tôi ngồi với anh đã hơn 3 giờ đồng hồ mà anh vẫn không nói điều tôi muốn được nghe. Chỉ cần một lời thôi cũng có thể làm tôi sung sướng thao thức suốt đêm để mơ mộng, để tưởng tượng về cả phần đời còn lại. Có lẽ anh biết điều tôi thầm mong muốn và cố tình đùa cợt tôi chăng?







- Mới tạnh một chút trời lại mưa nữa. Mưa hoài, anh nhỉ?



- Ừ, trời mưa thế này thì đành ngồi tán gẫu cho qua thời gian chứ biết làm gì!







Tôi không muốn biện hộ. Sự thành thật của những rung cảm sẽ làm chứng cho tôi. Em cười rất tươi theo những câu chuyện bông đùa của tôi nhưng em không biết tôi đang chết héo trong cảm xúc của mình. Những câu chuyện linh tinh ấy là cái phao cuối cùng để tôi bám víu vào thực tại. Ngày mai tôi đi rồi. Có nên không để lại một niềm lưu luyến và bao tiếc nuối? Em đâu biết rằng tôi muốn vứt bỏ hết màn kịch tôi đang độc diễn để có thể nói lên một lời thành thật duy nhất, rất thiết tha, và rất quen thuộc, như đã bao lần tôi đã thốt lên với những người con gái đi qua hay ở lại trong đời mình.



Tôi không muốn những cảm xúc vừa êm ái vừa đau đớn này tan biến. Cái cảm xúc khi tim chợt sai nhịp đập, khi tâm trí bỗng nhiên mộng du, khi mỗi ánh mắt chạm vào đâu cũng biến nơi đó thành vàng ngọc quý giá. Chỉ có sự từng trải của một người đàn ông mới giúp tôi giữ được vẻ bình thản cần thiết. Và sự lo sợ nữa! Tôi sợ rằng nếu tôi không đủ tỉnh táo thì những giây phút đẹp đẻ này sẽ vỡ tan và trở thành nỗi ân hận khôn nguôi như những mối tình đã trót đánh mất. Những mối tình luôn là mối tình đầu.







- Vậy là ngày mai anh đi?



- Ừ, ngày mai anh đi.







Sao anh không hiểu rằng em đang chờ chỉ mỗi một lời ấy? Em bồng bột ư? Có thể. Nhưng em đang sống thực với chính mình nhất trong sự bồng bột ấy, anh có biết không? Chỉ có anh mới có thể cuốn em vào cái dòng lũ mê đắm này. Chưa bao giờ em có cái cảm giác ấy mặc dù không ít người đã từng đến với em và mong mỏi ở em nỗi xao xuyến dữ dội như thế. Em đang buông trôi chính mình trong dòng thác ấy, đang chờ đợi những phiêu lưu đầy mê hoặc. Nhưng anh đã neo chặt em lại bên này bờ an toàn. Em nào cần tới sự an toàn ấy đâu anh!






Không, em tin là anh hiểu rõ em. Nhưng anh không thể cho em điều em khao khát. Điều đó càng làm em thêm đau, và muốn đau hơn. Cái đau đớn ấy sao mà đầy ma lực bởi vì chính sự hóa giải nỗi đau mới là điều kỳ diệu. Anh, chỉ có anh mới có thể cho em điều kỳ diệu ấy. Em không cần biết đằng sau điều kỳ diệu lấp lánh ấy những bất trắc gì đang chờ đợi. Em chỉ cần một lời của anh thôi cũng đủ thấy mình đã sống bằng muôn cuộc đời. Chẳng lẽ anh muốn chính em phải nói ra với anh những điều ấy sao anh?







- Mình đã ăn hai tô mì và uống mấy ly nước rồi mà vẫn chưa hết mưa, anh nhỉ?






- Chắc sắp tạnh mưa rồi. Mưa đã bớt nặng hạt.







Em ngồi im lặng đã lâu. Hình như em đang chịu đựng những cơn mưa. Mưa sắp tạnh rồi. Những câu chuyện bông đùa của tôi cũng gần khô kiệt. Khách trong quán cà phê đã lần lượt ra về. Cuối cùng chỉ còn lại hai người. Tôi sẽ nói lời ấy chứ? Gương mặt em trong bóng tối của quán cà phê vắng sao quá gần! Nếu mình nói ra mà bị từ khước, bị hoài nghi thì đau đớn lắm. Nhưng nếu được chấp nhận thì có hết đau đớn không?



Chỉ một lát nữa thôi là mưa sẽ tạnh. Và tôi sẽ không còn cơ hội nào nữa để được thấy mình lớn lao hơn chính mình trong niềm ngây ngất được vượt thoát cái thực tại không có thực này. Có lẽ những gì không thể cầm giữ trong lòng bàn tay mới là những điều có thực bởi vì ai cũng trân trọng và khao khát. Biết là không thể cầm giữ được nhưng vẫn muốn vươn tay ra vồ chặt lấy. Điều có thực ấy đang ở ngay cạnh bên tôi. Chỉ cần tôi đưa tay ra... Và nói một lời… Tôi đưa tay ra. Bàn tay cầm chiếc thìa khoắng lanh canh trong lòng ly cà phê đã cạn. Tôi không nói được điều mình muốn nói.










- Anh ơi, tạnh mưa rồi!



- Ừ, thôi mình về.
 

fruit NHO

Active Member
Nơi đó -
Vũ thành sơn
Tôi vừa tìm ra một cái cớ để có thể tự tử. Đúng như thế. Bây giờ. Chính xác là ngay lúc này, khi tôi đã cạn hết chai thứ tư, khi chỉ còn lại một cảm giác mỏi mệt hoàn toàn. Gã phục vụ bàn đứng ở góc phòng tiến đến, có lẽ nãy giờ gã vẫn đứng xớ rớ ở chỗ ấy, bên cạnh cửa dẫn vào nhà bếp, quan sát tôi mà tôi không để ý. Tôi ra dấu yêu cầu mang thêm một chai nữa. Phía trước mặt, dưới ngọn đèn chùm toả ánh sáng vàng ấm áp, một bức poster lộng kính có khung gỗ màu rêu. Ảnh một cô vũ nữ mặc váy đen bó sát người, có lẽ bằng da — không hiểu sao tôi lại nghĩ nó bằng da — đá chân về phía trước, để lộ một khoảng đùi gợi cảm. Chiếc giày cao gót hướng vào mặt tôi. Nhọn. Nhỏ. Móng tay của nàng đỏ và cũng nhọn, nhỏ. Tôi như vẫn còn đang nhìn những chiếc móng tay ấy thoăn thoắt gỡ những cuộn chỉ rối. Mỗi lần gặp phải những của nợ ấy, tôi đều phải nhờ đến biệt tài của nàng. Nàng thật sự kiên nhẫn và khéo léo. Đĩa mồi trước mặt nãy giờ vẫn còn nguyên. Thực tình tôi không thấy có nhu cầu phải nhấm nháp gì cả, nhưng vẫn cứ gọi, như một thói quen mỗi lần vào quán, cho có cái gì đó ở trên bàn, nhiều khi ngồi uống cả buổi mà chẳng bao giờ động đến đũa. Nhà hàng bắt đầu ngột ngạt bởi hơi người và khói thuốc lá. Tiếng ồn ào như chợ vỡ. Họ nói đủ thứ, nhưng tôi chẳng nghe được chuyện gì ra chuyện gì. Dưới sàn nhà, một vài chỗ loang loáng nước, những vỏ bao thuốc lá nằm rải rác.

Quán ăn Cao Nguyên nằm ở góc phố. Từ đây có thể nhìn thấy bùng binh có tượng đài một chiến binh ôm súng bằng đá đã chuyển sang màu xám xanh, những hàng cây sao, những cửa hàng tạp hoá, những cô gái đã tới giờ ra đứng đón khách thập thò bên trạm xe buýt, những con đường bụi bậm, những dòng xe chạy bất tận. Một vài đám mây đen xuất hiện từ xa. Bầu trời đang sà xuống thấp. Nhiều người bước đi vội vã. Một vài chiếc xe phóng nhanh. Chắc bên ngoài gió thổi mạnh. Những tấm bạt treo trước những cửa hàng bay tung lên, phấp phới. Tôi nhìn sang bên kia đường tò mò xem các cô gái sẽ làm gì khi trời đổ mưa. Gã phục vụ bàn đã trở lại với chai bia ướp lạnh trên tay. Đã có những hạt mưa bắt đầu rơi. Rồi sau đó cả một khối nước đổ ầm ập xuống đất nhanh chóng, làm thành một tấm màn trắng xoá. Nước bắn vào cửa kính chảy xuống thành những vệt dài. Tôi chợt nhớ đến Nai và những buổi chiều tôi đến đón nó ở cổng trường vào mùa mưa. Khi nó vừa ra khỏi cổng, đúng lúc cơn mưa đổ ập xuống. Hai cha con chở nhau trên chiếc Honda, che chung chiếc áo mưa, nó ngồi sau ôm chặt lấy tôi, áp mặt vào lưng ấm áp. Xe chạy chầm chậm qua các dãy phố bắt đầu lên đèn. Khi về đến nhà đã gần 7 giờ tối, Nai vừa đói vừa rét, môi tái xanh. Tôi đang thấy lại gương mặt nhợt nhạt của nó. Tôi thấy tôi đang vén những sợi tóc dính bết vào nhau sang một bên trán nó và ôm nó vào lòng để ủ ấm. Bây giờ chắc đã hơn 7 giờ. Tôi không đeo đồng hồ. Tôi đoán có lẽ nó đã được mẹ đón về nhà, đang ăn cơm và dán mắt lên màn hình ti vi xem chương trình phim hoạt hình. Tự dưng tôi muốn gọi điện thoại về nhà, nhưng tôi vẫn ngồi bất động, dán chặt vào ghế, nhìn ra màn mưa. Cơn mưa mỗi lúc một lớn, nhiều người đi đường chạy vào mái hiên quán ăn trú mưa che gần hết cửa kính trước mặt.

Tôi gọi bia nữa. Mưa vẫn chưa ngớt. Vào lúc này, nó là cái cớ chính đáng để những tay bợm nhậu tiếp tục ngồi lại trong quán; nhưng một vài người đã có vẻ bồn chồn, thỉnh thoảng họ lại nhìn ra đường như thể xem chừng cơn mưa khi nào mới dứt. Đầu tôi bắt đầu thấy nặng, mi mắt muốn kéo xuống, nhưng không cảm thấy buồn ngủ. Chỉ có một cảm giác trống rỗng, chán nản. Tôi biết có uống thêm nữa, cảm giác trống rỗng trong tôi sẽ không hề vơi bớt chút nào, nó vẫn còn nguyên đấy, há cái họng đen ngòm sẵn sàng nuốt chửng lấy tôi, khi tôi đứng lên loạng choạng bước đi.

“Em đã nói bao nhiêu lần rồi. Anh phải đi khám bác sĩ đi chứ, anh không được coi thường sức khoẻ của anh như thế được.” Tôi nửa nằm nửa ngồi, lưng dựa vào thành ghế, hai chân gác lên mặt bàn, nhìn ra ngoài sân. Ở đấy có một bộ bàn ghế đá, vài chậu kiểng, một cánh cổng sắt đã rỉ mà mấy lần tôi định sơn lại nhưng vẫn chưa làm được. Thỉnh thoảng một ngọn gió từ bên ngoài thổi vào, hất tấm màn cửa sổ bay ngược lên trên. Căn phòng nhờ vậy trở nên đỡ nóng bức hơn một chút. Chung quanh vẫn còn vài căn nhà để đèn sáng. Có lẽ Nai đã ngủ. Tôi không nghe thấy có tiếng động ở trên gác. Chỉ có tiếng xe chạy ngoài đường vọng vào và tiếng mấy con chim đêm. Tôi ngáp, tôi buồn ngủ quá, chỉ muốn đi nằm. Tai tôi lùng bùng, không nghe được gì nữa.
 

fruit NHO

Active Member
Sáng hôm sau, tôi thấy mình vẫn nằm dài trên ghế sa lông, đầu ê ẩm, hai vai đau nhừ. Một tấm chăn mỏng đắp ngang người. Vợ tôi và con bé Nai không có ở nhà. Có thể nàng đã đưa nó đến trường trên đường đi làm rồi. Từ lâu tôi đã không đưa đón nó đến trường. Trên màn hình ti vi là bản tin buổi sáng, cô xướng ngôn viên có mái tóc ngắn và cặp mắt xếch đang loan báo về một vụ khủng bố; tôi nhìn thấy những vũng máu, những đống gạch đổ nát, nhiều người chạy lăng xăng chung quanh. Ngày nào cũng có ít nhất một vụ khủng bố ở đâu đó. Cái chết đã trở nên quá quen thuộc như cơm bữa và cùng với nó là sự miễn nhiễm đối với bi kịch. Đã gần 8 giờ. Tôi vẫn không thể bỏ được thói quen coi giờ, mặc dù chẳng có việc gì phải gấp gáp vào lúc này. Đầu tôi nặng chịch. Cảm giác nhộn nhạo, khó chịu. Hôm nay thứ Hai, tôi không đến sở làm. Nắng ngoài sân đã chiếu vào tận chân bàn. Tôi nhìn thấy những hạt bụi bay lên. Tiếng xe máy nổ, tiếng người nói lao xao ngoài ngõ vọng vào. Tôi nằm nghĩ miên man. Về công việc. Về những bộ mặt quan trọng trong các cuộc họp đầu tuần. Về những con người tôi phải gặp mỗi ngày ở công sở. Tôi chứng kiến những lo lắng của họ mỗi lần có tin đồn về thuyên chuyển công tác, những cuộc vận động ngầm của họ cho một chuyến công du nước ngoài hay một cái ghế đang bỏ trống, về những giao dịch và thoả thuận xảy ra ở các nhà hàng. Một cách không hào hứng. Như mỗi lần cùng xem phim Tom và Jerry với Nai.

Tiếng chuông điện thoại reo ở phòng trong. Một lúc thật lâu, rồi tắt hẳn. Sau đó, nó reo trở lại. Lần này ngắn hơn.

Vào buổi trưa tôi ra khỏi nhà, đến một người bạn làm bác sĩ nội khoa. Tôi đi bộ, mặc dù phòng mạch khá xa. Nắng gắt. Cổ và một bên mặt rát bỏng như kề bên một ngọn lửa. Một vài người hắt những thau nước ra ngoài sân cho dịu bớt. Các cửa hàng dọn hết vào trong, mấy chiếc xe gắn máy xếp hàng phía trước được đậy điệm bằng những miếng cạc tông. Không khí như cô đặc lại. Tôi bốc hơi. Tôi mong có một ngọn gió. Trước một khách sạn, mấy người lái xe quây quần chung quanh một bàn cờ tướng dưới một gốc cây. Một chiếc đậu sát lề, cửa mở rộng, tôi nhìn thấy bên trong người tài xế chắp hai tay sau gáy ngả người ra sau ghế ngủ, mồm há hốc.

Phòng mạch nằm trên lầu 2 một toà buynh đinh mới xây. Một phần phía trước mặt tiền nhà lắp kính, tường sơn màu gạch cua còn mới. Giờ này chưa phải là giờ tiếp bệnh nhân. Tôi nhìn vào trong qua lớp cửa sắt. Cái bàn dành cho cô y tá kê ngay cửa ra vào và mấy cái ghế nhựa màu xanh lá cây sát hai bên tường trống trải, không có ai. Tôi bấm chuông. T. hẹn tôi vào lúc 3 giờ 30.

T. nói tôi nằm trên một cái giường nệm bọc vải trắng, cởi áo và cởi thắt lưng quần. Tôi nhìn những bức tranh cắt ra từ những tạp chí nước ngoài được T. lộng kính cẩn thận treo chung quanh tường. Một tờ giấy có in hình một người dạng chân tay và những bộ phận bên trong cơ thể. Một bảng hướng dẫn sử dụng thuốc. T. vạch mắt, sờ và nắn nắn bụng, nghe tim phổi và đo huyết áp cho tôi. Tất cả diễn ra một cách chậm rãi trong lúc chúng tôi tiếp tục nói chuyện đủ thứ, về việc K. mới cặp với một cô trẻ đẹp bị vợ phát hiện phải trở về Úc sớm, không biết bao giờ mới quay lại Việt Nam; N. vừa xin nghỉ hưu trước tuổi, mới mở một văn phòng cố vấn luật; một vài bộ phim đang chiếu coi được, vài cuốn sách mới xuất bản nên mua… Tôi vừa nói chuyện vừa theo dõi từng cử chỉ và diễn biến trên nét mặt của T.

- Ông có vấn đề không ổn về gan rồi, T. nói.

- Thế à?

- Tôi ghi cho ông cái giấy mai vào bệnh viện tôi để họ thử máu, thử nước tiểu và nội soi.

- OK.

Lúc bước ra khỏi cầu thang, tôi vấp phải một vật gì dưới chân suýt ngã chúi về phía trước. Trong này hơi bị tối, chưa có ngọn đèn nào được thắp sáng. Bên ngoài nắng đã dịu đi nhiều. Không biết tôi đã ở trong phòng mạch của T. bao lâu. Một căn bệnh hiểm nghèo trong người. Tôi chỉ có cảm giác tò mò của người chủ nhà trước một người khách lạ mới dọn đến sống chung. Tôi muốn đón một chiếc xe buýt hay một chiếc xe ôm. Sau cùng, tôi quyết định thả bộ về nhà. Tôi đi ngược lại con đường ban nãy. Hàng quán đã bày tất cả ra vỉa hè. Tôi đi chen vào giữa những cây dù và những dãy xe. Mấy cô gái mặc đồng phục, chắc ở một siêu thị nào gần đây, ngồi ăn quanh những cái bàn thấp kê ngay trên hè. Những người tài xế và những chiếc xe đã đi khỏi. Dưới gốc cây bây giờ là một chiếc xe mì gõ. Đến một ngã tư, tôi rẽ vào một con đường khác. Tôi chưa muốn về nhà. Bây giờ hãy còn sớm. Vào lúc này, Nai và mẹ nó chưa có mặt ở đó. Tôi chẳng có việc gì phải làm và tôi muốn tìm một chỗ nào đó để ngồi một mình. Một chỗ nào đó chứ không phải ở nhà.

- Thêm một chai nữa chứ chú? Gã phục vụ bàn vừa xếp vỏ chai bia trên bàn xuống đất vừa nhướng mắt hỏi.

- Ừ, thêm một chai nữa.

Cơn mưa đã tạnh. Những chiếc xe ô tô quét đèn loang loáng trên mặt đường nhựa. Đám đông trú mưa đã đi khỏi. Tôi nhìn sang bên kia đường. Những cô gái cũng đã ra khỏi trạm xe buýt, đứng dưới mấy gốc cây, một vài cô đứng hẳn xuống đường vẫy khách. Tôi có cảm giác quán trống trải. Nhiều người đã ra về. Đến lúc này tôi mới nghe thấy tiếng nhạc. Một bài hát của Billy Joel. Cause all I needed was a little faith so I could catch my breath and face the world again. Không, tôi không còn cơ hội nào nữa. I’m Only Human. I’m Only Human.

Tôi là người sau cùng rời khỏi quán. Đứng bên ngoài, gió thổi vào người mát lạnh. Tôi cảm thấy mệt và buồn ngủ. Chân tay tôi mỏi nhừ. Nhiều cửa hàng đã đóng cửa, tối om. Ngôi nhà tập thể trước mặt chìm trong bóng tối, nhưng phía trên cao còn một vài cửa sổ để đèn sáng. Tôi đoán có thể họ đang còn xem tivi, một bộ phim cuối cùng trong ngày, có thể họ đang ngồi trên bộ sa lông, vai tựa vào nhau, người vợ đang cầm trên tay một gói gì đó vừa nhai vừa cười khúc khích, anh chồng đang cầm trên tay điếu thuốc hoặc một cốc rượu. Con của họ trên giường, đã ngủ yên.

Tôi băng qua đường, đi qua ngôi nhà đó, đi qua những thân cây còn sáng nhờ nhờ vệt sơn trắng. Rải rác vẫn còn những người đi bán khuya đẩy xe, những cặp trai gái chở nhau trên những chiếc xe máy phóng qua thật nhanh, con đường dài như vô tận. Tôi đi về phía mấy cô gái. Một cô mặc váy thật ngắn màu xanh, có cặp đùi to và bộ ngực nở nang chạy lại nắm cánh tay tôi kéo đi. Tôi ngửi thấy mùi phấn, mùi dầu gội đầu trên mái tóc sộc vào mặt.

- Đi vui vẻ với em đi anh. Khuya rồi còn đi đâu nữa hả anh?

Cặp môi tô đỏ đậm dí sát tận mặt tôi. Tôi ngộp thở quá. Tôi giật phắt cánh tay ra và đẩy cô gái qua một bên, loạng choạng bước đi. Tôi nghe sau lưng những tiếng chửi thề.

Những ngọn đèn đường ở đây không đủ sáng, một vài cái đã cháy bóng, hay có thể tôi đã uống nhiều quá cũng không biết nữa. Tôi tiếp tục đi qua những dãy nhà đã đóng kín cửa, những chiếc ô tô đậu sát lề, có một lúc tôi ngồi phệt xuống dựa lưng vào một chân tường, đầu nặng như búa tạ. Hơi đêm lạnh luồn vào áo ngấm vào da thịt. Tôi muốn về nhà. Nhưng tôi cần một chiếc xe ôm. Tôi nhìn quanh. Tôi cần phải băng qua bên kia đường. Tôi đi về hướng con phố còn thắp đèn sáng choang, có thể đó là những cửa hàng bán thức ăn khuya, ở ngã tư. Rồi tôi bỗng nghe có tiếng xe máy ở sau lưng, tiếng người hét to và sau đó, một cú va chạm thật mạnh hất tung người tôi lên. Tôi còn kịp nhìn thấy những ánh đèn loé sáng.
 

estrella

Active Member
Cha nuôi


Trần Thuỳ Mai







Những câu chuyện cổ tích thường kết thúc bằng đám cưới của cô gái mồ côi xinh đẹp và chàng hoàng tử đẹp trai, trong một cung điện bằng vàng. Đó cũng là một quan niệm về hạnh phúc. Còn trong truyện ngắn của Trần Thuỳ Mai, cô gái mồ côi mảnh mai tên Ni vượt qua những đổi thay của hoàn cảnh là để tìm lại được chính mình. Không xa lạ với những biến chuyển từng ngày của xã hội, nhưng nhà văn nổi tiếng xứ Huế này vẫn riêng giữ cho văn mình một cách đẹp truyền thống và đầy nữ tính.







Cuối tháng, Tiến chưa lãnh lương mà Ni lại không muốn ngồi nhà. Vét hết túi hai đứa còn được năm ngàn, Ni vào mượn dì Ba thêm một ngàn mà dì nhất định không cho. "Cả một bành đồ siđa mới khui ra chưa bán được cái mô. Tiền chưa vô là nhất định không cho tiền ra, biết không?" Ni tiu nghỉu. Nhưng rồi hai đứa cũng ra ngồi ở quán bên sông, uống một ly nước chanh, một ly trà loãng. Tiến nói: "Dì Ba mê tín khiếp". Ni buồn buồn : "Không phải đâu, vì dì không ưng Ni quen Tiến nữa". Tiến bặm môi, ngơ ngẩn ngó ra sông.







Hai năm trước, khi Tiến bắt đầu thường xuyên đến nhà, dì Ba mừng ra mặt. Vậy là đứa cháu mồ côi sắp có người rước đi rồi. Ni ở căn chái phía sau, gần bếp. Đi học về, Ni nấu ăn, rửa chén, giặt giũ. Dì Ba có ba con, cộng cả nhà sáu người, áo quần quăng ra mỗi ngày một chậu giặt có ngọn, Ni giặt đến nửa chậu đã hùi hụi thở. Từ khi Tiến được phép lui tới thì Tiến giặt giúp cho Ni. Tiến khoẻ lắm, chỉ vèo một chút là xong.







Hồi Ni học thi đại học, Tiến vẫn đến ngày ngày, dì Ba càm ràm: "Tổ cha tụi bây, mai thi rồi mà ngày ni còn kè kè". Không phải đâu, Tiến chở Ni ra quán cho Ni ngồi nhìn sông một chút cho dịu bớt cơn nhức đầu. Chỗ Ni ngồi học nóng thế, gặp lúc bếp dầu hư, khói xông vào rất ngạt. Ngồi bên Tiến cơn đau đầu của Ni dịu lại. Tiến nói: "Tiến nghe nói con mèo đen có chứa điện năng lớn, nuôi một con mèo đen trong nhà, sẽ giảm được những chứng như đau đầu, hoa mắt, chóng mặt". Ni cười: "Khỏi cần, Tiến là con mèo đen của Ni rồi".







Ni thi đậu vào đại học, đúng điểm chuẩn, không dư một ly. Thế cũng may rồi. Kể từ đó, cuộc đời Ni rẽ ngoặt qua một đoạn khác, nói như dì Ba là: Từ nay mới bắt đầu "mọc mũi sủi tăm". Dì Ba bỗng cưng Ni thấy rõ. Dì không nói đến chuyện trông Ni sớm lấy chồng để đập căn chái của Ni, nới rộng phòng dì nữa. Cái bếp dầu cổ lỗ đã chui vào nằm trong gác, thay bằng bếp ga Rinnai. Tiến cũng không phải giặt đồ giùm Ni nữa, máy giặt Sanyo mỗi ngày quay vi vút, mới sáng sớm sân phơi đã giăng kín mấy dãy áo quần thơm phức mùi Comfort.







Một chiều Tiến ghé vào, Ni vội vã lôi ra sau bếp, thì thào: "Tiến ơi, Ni đã có ba". Tiến sững người. Ba mẹ Ni đều mất đã lâu, ai cũng biết mà! Ni cười: "Đây này, Tiến đọc đi". Tiến cầm lấy tờ thư, chỉ có mấy dòng. "Tiếng Pháp, dượng Ba giảng cho Ni thế này...". Thì ra là thư của một người Pháp tên là Jacques Hardy nhận làm cha nuôi của Ni, hàng tháng sẽ gửi tiền về nuôi Ni cho đến khi hết đại học.



Vậy là Ni xem như hết khổ. Ni đã có người bao bọc, đỡ đần. Bất giác Tiến hơi buồn. Cái buồn ích kỷ: trước kia chỉ một mình Tiến tốt với Ni, nay có đến hai người. Ni nhìn mặt Tiến, hiểu ngay, nói như dỗ dành: "Cha nuôi đâu đã biết Ni tính tình mặt mũi ra sao. Chẳng qua là người ta làm từ thiện thôi". Miệng nói vậy nhưng Ni có vẻ sung sướng không giấu được. Mà cũng phải, từ nhỏ Ni không cha, không mẹ, bây giờ đột nhiên có người gọi là con. Dì kể công: "Cũng nhờ dượng quan hệ rộng, bạn bè bên nước ngoài người ta giới thiệu cho, chớ tiền đâu có trên trời rớt xuống".







Hàng tháng, Ni viết thư cho cha nuôi, kể chuyện học hành, sức khoẻ... Ban đầu dượng Ba dịch cho, sau Ni học thêm tiếng Pháp, tự viết. Dượng Ba đọc lại, cười: "Sai bét nhè, nhưng thôi, có vụng về vậy mới thật, mới dễ gây xúc động". Tiến nhìn qua cửa sổ. Nghĩ cũng kỳ, cái thật, cái xúc động mà cũng phải cần đến kỹ xảo!







Lâu lâu, Ni có quà xa gửi về. Thuốc bổ, kẹo... Các con dì Ba chia nhau hết. Ni cũng mặc, bảo Tiến: "Ăn một cái kẹo của cha gửi là hạnh phúc lắm rồi. Hồi Tiến nhỏ, ba mẹ Tiến có mua kẹo cho Tiến không?". Tiến nghe mà thương Ni quá. Bỗng Tiến lo lo, hỏi Ni: "Lỡ ra sau này cha nuôi muốn đem Ni về Pháp, chắc Ni bỏ Tiến mà đi". Ni lắc đầu: "Làm chi mà có chuyện đó. Người ta làm từ thiện, lòng tốt cũng có hạn thôi". Cặp mắt ướt của Ni thoáng buồn, rất buồn...







Tưởng chỉ có thế. Nhưng chẳng bao lâu, Tiến chưng hửng.







Ni bảo Tiến: "Cùng một dòng máu đằng ngoại mà sao dì lúc nào cũng nghĩ khác em. Tiến xem đây này". Tiến nhìn, lại một bức thư tiếng Pháp nữa, lần này ký tên ông Nélig Picquier. "Cũng là nhận bảo trợ em làm con nuôi?". "Dạ. Dì bảo em viết thư cảm ơn y như lần trước. Em thấy kỳ quá". Dì Ba từ đâu bỗng đột ngột bước vào: "Có cái chi mà kỳ với không kỳ. Cha này hay cha khác thì cũng ở tít bên Tây. Có phải ở chung một làng đâu mà sợ tranh giành?". Ni thở dài với Tiến: "Ni chỉ muốn có một cha nuôi thôi. Nhưng làm sao cãi dì".







Dượng Ba đúng là có tài tháo vát. Khi Ni học đến năm thứ hai thì đã có đến năm cha mẹ nuôi, có ông người Pháp, có bà người Mỹ, cuối tháng Ni viết thư đừ cả người, cuối cùng thì nảy ra sáng kiến viết một lá rồi sao ra làm mấy bản. Dần dần, Ni quen đi, không buồn, không áy náy nữa. Khi dượng Ba móc thêm được ông bố nuôi thứ sáu người Mỹ gốc Việt, Ni chẳng quan tâm đến tên tuổi cùng gốc gác của ông, chỉ bảo: "Vậy là dì có thêm trăm đô mỗi tháng".







Cuối năm, dì Ba cho xây lại ngôi nhà, thành một toà nhà hai tầng khang trang. Ni đã trở thành con gà đẻ trứng vàng. Hôm dọn vào nhà mới, Tiến đang hì hục vác giùm các thứ chợt nghe tiếng dì nói thầm với dượng: "Con Ni không biết kén. Sau này vợ đại học, chồng trung cấp, có phải vậy là nhà bếp cao hơn nhà trên, có khó coi lắm không?". Từ đó, Tiến không đến thăm Ni nữa.







Ni đạp xe về nhà Tiến: "Sao Tiến không tới nữa?" Ni trách, rồi kể lể với Tiến: Ông Picquier không đỡ đầu nữa, bà Jeanne cũng vậy, ông Jacques cũng rút êm. Lý do là quả đất rộng thế nhưng lại tròn, các ông bà này mỗi người ở mỗi nơi nhưng lại đi du lịch Thụy Sĩ cùng một tours. Trong câu chuyện vui ai cũng đem chuyện cô con nuôi dễ thương ra khoe, và đều té ngửa trước những bức thư giống nhau như hệt. Ni bảo: "Hú vía, may sao dì dượng đã xây xong nhà". Nói rồi Ni than phiền: "Nhà xây rồi nhưng phòng Ni vẫn lẹt đẹt sau phòng dì, lẽ ra phải cho Ni cái phòng phía trước mới phải".







Tiến nhìn Ni, cảm thấy Ni dường như khác trước, khác nhiều lắm... Bỗng nhiên lòng nguội lạnh, Tiến thừ người nhìn ra vườn. Khu vườn nhỏ có cây khế đang ra hoa lấm tấm hồng... Ni lay lay vai Tiến, phụng phịu: "Nãy giờ Ni nói chuyện với ai, với cục đất à?". Tiến cười khùng khục: "Tiến nhìn cây khế ngoài vườn. Ước chi có con phượng hoàng bay xuống cho Ni may túi sáu gang". Ni rụt ngay bàn tay đang đặt trên vai Tiến, môi mím lại. Từ đó hai đứa hai đường. Mỗi lần nghĩ đến Ni, Tiến chỉ còn một cảm giác nghèn nghẹn trong cổ, thế thôi.







Phương Ly, cô bạn cùng học ở lớp tại chức kinh tế, có hôm hỏi Tiến: "Mục đích học của anh là gì? Tính lên chức, vô ngạch, hay xin tăng lương?". Tiến tự xét nét tâm tư, thấy cái gì trong bản liệt kê ấy cũng không đúng với ý nguyện của mình. Vậy thì mình đi học để làm chi? Mãi rồi mới nhận ra, mình đi học là để chống lại cái cảm giác nghèn nghẹn trong cổ từ ngày ấy, thế thôi. Vớ vẩn thế thì làm sao trả lời cho Phương Ly hiểu được, Tiến đành cười trừ.
 

estrella

Active Member
Có lần Ly nhờ chở về, Tiến chở ngang nhà Ni . Ngôi nhà hai tầng bề thế vậy mà thắp có mỗi một ngọn nêông ở gian giữa, tiết kiệm điện đến thế thì thôi. Tiến ngỏng cổ nhìn lên. Bỗng nhiên cảm giác nghẹn trở lại, Tiến húng hắng ho, tay lái chao đi. Phương Ly lo lắng: "Tiến làm sao thế?". Tiến lắc đầu: "Không sao, con phù du bay vào mắt".







Mấy hôm sau, mẹ Tiến hỏi: "Lâu nay không gặp con Ni à? Bữa qua hắn tới, hỏi thăm con ốm mập ra sao. Mạ nói con đi làm vắng, để chủ nhật rồi bác biểu hắn qua thăm cháu".







Hình như cái số Tiến và Ni đến hồi này là số xa cách, Tiến vừa vào đến cổng thì dì Ni nhìn ra. Dì đang vui, vui đến nỗi thấy Tiến dì cũng không cần tỏ ra lạnh nhạt như xưa nữa. "Tiến à, dì nói để con mừng cho em Ni, ngày mai là cha nuôi Ni ghé thăm đó. Mấy bữa nay dì dượng dọn dẹp nhà cửa mệt phờ cả người". "Cha nuôi nào hở dì?". "Thì ông Lê Vy đó, ông hứa bảo trợ cho em Ni qua Mỹ học tiếp. Nếu xin được visa không trở ngại chi thì mùa thu này là em qua bên đó rồi".







Tiến khờ mặt ra, muốn chờ Ni về hỏi thêm cho rõ, nhưng tuy mặt mũi dì tươi vui đon đả vậy, dì cứ đứng chắn ngang cửa, rõ ra ý không muốn để Tiến vào nhà. Tối hôm ấy ở lớp, Tiến chẳng ghi được chữ nào. Phương Ly lo lắng nhìn :"Tiến trúng gió à, để Ly ghi giùm cho nghe?".







Từ đó, mỗi lần Phương Ly nhờ Tiến đưa về, Tiến đều đi đường vòng, tránh qua nhà Ni. Có bữa Phương Ly hỏi sao không đi đường gần, Tiến cười cười: "Đường vòng dài hơn, đi với Ly được lâu hơn". Nói xong chợt cảm thấy mình có chút gì giả trá, vội đính chính: "Sợ đi ngang nhà người cũ". Thật thà khai báo thế mà Ly không giận...







Mùa hè tới, lớp học đêm cũng nghỉ. Tối rảnh chẳng biết đi đâu, Tiến ra quán chơi game. Lòng Tiến giờ dửng dưng, không thương ai nhớ ai.







Hết hè, lớp học đêm lại mở. Đêm đầu khai giảng, Tiến đứng trên hành lang, chợt thấy trống vắng giữa đám người đông xôn xao. Không biết Phương Ly đã đến chưa?







Bỗng Ni hiện ra trong sân với tập vở ôm trước ngực. Tiến giật mình, tưởng mắt mình bị loá vì đèn. Nhưng mà Ni thật rồi, ánh mắt và nụ cười Ni lúc này thật khó tả, vừa vui sướng, vừa đau khổ.



"Ni ra trường rồi, xin việc khó quá nên tính học thêm một bằng đại học nữa cho chắc".



"Còn việc đi du học?". "Sao Tiến biết?". "Tiến nghe dì nói mà". "Tiến có đến à?". Ni ngẩn ra một lúc rồi thở dài: "Ni không đi đâu Tiến ạ". "Sao uổng vậy? Được đi du học, nằm mơ cũng không thấy". Ni lắc đầu: "Ni cũng nghĩ vậy. Người ta ai chẳng muốn vươn lên, Tiến có thông cảm với Ni không?".



Tiến ngập ngừng... "Nhưng ông Lê Vy không chịu bảo lãnh Ni đi theo diện du học, mà theo diện kết hôn". Tiến trợn mắt, ấp úng hỏi: "Sao lại kết hôn với con nuôi được?". "Ni nghe dì nói, luật bên đó không cấm". "Thế Ni...".







Ni nhìn Tiến nảy lửa rồi bặm môi, nói một hơi rành rọt: "Tiến đừng ngố nữa, túi của Ni cùng lắm là bốn gang thôi chứ không đến sáu gang như Tiến nghĩ đâu".







Lúc hai đứa dứt chuyện thì mọi người đã vào lớp, nhìn quanh chỉ còn hai đứa trên sân vắng. "Hay mình tự cho phép cúp cua một bữa mừng hội ngộ đi Ni". Ni ngồi xuống gốc cây bàng. Tiến níu Ni gượng lại, lấy khăn tay trải cho Ni ngồi, còn Tiến lót dép ngồi bên cạnh. "Chuyện việc làm, bây giờ Ni tính sao?". "Ni xin vài nơi rồi chưa được. Trước mắt chắc phải tìm chỗ dạy kèm, rồi kiếm chỗ ở". Tiến ngạc nhiên: "Chỗ ở á?". "Thì mấy hôm nay dì lại đòi đập căn phòng của Ni để nới rộng phòng dì...". Ni nói, mắt ầng ậng nước. Tiến nắm chặt tay Ni. "Đừng sợ, Ni ơi, có Tiến rồi mà".







"Nếu có ước muốn trong cuộc đời này, xin hãy ước cho thời gian trở lại". Xa xa vọng lại tiếng hát từ một quán nhạc đâu đó ven đường - Hình như là cái quán ở ven sông mà ngày nào hai đứa vẫn ngồi bên nhau.
 

estrella

Active Member
Tìm trong quá khứ

Trần Thị Diệu Tâm

Trước khi đến trạm Métro để về nhà, Anne thường phải đi ngang qua một bệnh viện tâm thần. Nơi đây một buổi chiều có những bệnh nhân nhẹ được phép ra đường phố dạo chơi, ra phố xá để mua một tờ báo, một gói bánh, gói kẹo hoặc các thứ lặt vặt khác mà người bệnh cảm thấy thích thú.

Thỉnh thoảng Anne gặp một cô gái rất trẻ, khuôn mặt bầu bĩnh vừa đi vừa nhìn xuống đất cười một mình. Có lần Anne gặp một người đàn bà độ chừng ba mươi, áo quần tề chỉnh, nhưng lại trát một lớp phấn trắng bệch, tô môi son đỏ chót, trên đầu bà thắt một cái nơ đỏ chói. Cái nơ đỏ và bộ mặt trắng kiểu ấy thì Anne biết bà ta từ bệnh viện đi ra. Người đàn bà trẻ nhìn Anne chào mỉm cười coi như đã là bạn, rồi xin nàng địa chỉ. Anne hỏi để làm gì, trả lời để tôi gởi thiệp chúc cô được mọi điều hạnh phúc.

"Chúc cô được mọi điều hạnh phúc". Sao mà dịu dàng êm ái, Anne cảm động, ghi ngay địa chỉ của mình, bởi vì được nghe người khác chúc cho mình mọi điều hạnh phúc. Anne đưa mảnh giấy nhỏ ghi tên và địa chỉ thật của mình, bà ấy cám ơn rối rít. Tuần lễ sau, Anne nhận được tấm hình tháp Eiffel, mặt sau ghi: "Tôi đến Paris hơn tuần nay, gởi cô tấm hình kỷ niệm, chúc cô mọi điều hạnh phúc. Hãy nhớ đến tôi nhé". Ký tên không rõ, sau đấy Anne gặp người đàn bà, nàng cám ơn đã nhận được tấm thiệp, thì bà nhìn nàng ra vẻ ngạc nhiên, chẳng nói năng gì, đôi mắt nhìn vào một khoảng đâu đâu.

Từ đó, Anne không thể nào hiểu được có điều gì không bình thường ở những người mắc bệnh tâm thần, những người mang trong hồn một chứng bệnh điên.

Chiều hôm sau, cũng như mọi chiều tan sở, Anne rảo bước qua bệnh viện đến trạm Métro. Nàng đi chậm hơn mọi ngày, Paris chiều nay trời đẹp quá, Paris đang vào xuân, cái lạnh khô làm cóng thịt da đã bị lùa vào lãng quên. Buổi sáng mai đi làm có hoa jonquille vàng chào đón hớn hở bên vệ đường, và buổi chiều về, Paris biết để lại chút hơi ấm cho nỗi mệt nhọc của một ngày làm việc.

Anne chợt dừng lại, một người đàn ông Á Đông tiến gần Anne hỏi bằng tiếng Pháp:

- Cô có phải người Việt không?

Anne không trả lời, nhưng hỏi lại:

- Ông muốn hỏi việc gì?

Người đàn ông cười bắt đầu nói tiếng Việt:

- Cô là Như An.

Anne díu mày, lạ quá bỗng dưng có người gọi mình là Như An. Mình chẳng bao giờ quen ông ta.

- Tôi không phải Như An, tôi là Marie Anne.

Nàng lạnh lùng bỏ đi, tiếng người đàn ông thảng thốt níu kéo:

- Em Như An, em không nhận ra anh sao?

Giọng nói khàn đục, chới với. Anne có cảm tưởng như tiếng nấc ực lại trong cổ họng vì mảnh váng cuối cùng bị sóng biển xô ra xa. Nàng quay lại nhìn có vẻ thương hại. Người đàn ông lắp bắp:

- Anh đây, anh là Tường đây

Bây giờ Anne ngở rằng mình là kẻ mất trí nhớ, người đàn ông trước mặt có tên Tường đang cố gắng thúc bách nàng trở về trạng thái có trí nhớ. Anne càng hoảng hốt, nàng nghi ngờ chính mình. Khi nhớ lại cách đây ít hôm, tờ báo France Soir viết về một người đàn ông nói tiếng Anh, bị bệnh mất trí nhớ, buổi sáng mới sáu giờ, trời còn bốn độ âm mà ông đã cởi áo quần xuống sông tắm. Được đưa vào bệnh viện, bác sĩ hỏi gì cũng lắc đầu, hỏi lắm thì không biết, không biết mình ở đâu, không biết mình tên gì, mình bao nhiêu tuổi, gốc nước nào. Các cô y tá bèn đặt người đàn ông mất trí nhớ một cái tên để gọi là ông Smith. Ông Smith là một trong những kẻ im lặng bơ vơ của thời đại mất quá khứ.

Ông Tường nhìn Anne không chớp, chờ đợi. Rồi cái nhìn trở nên đắm đuối, pha chút tuyệt vọng tha thiết. Cái nhìn sắp chìm vào một vùng không có ánh sáng. Anne dịu dàng cười.

Ông Tường mời nàng:

- Chúng mình vào một quán càfé một chút nhé,

Anne như bị thôi miên, gật đầu

- Em uống gì, nước cam hay café?

Ông Tường coi bộ bình thường quá, hay mình là người bệnh mà không biết, Anne lẩn thẩn nghi ngờ.

Khi người bồi bàn mang nước cam ra, ông Tương đưa tay cầm chiếc muổng quậy quậy ly nước cam có đá cho Anne.

Cử chỉ của người đàn ông chợt nàng rùng mình, bởi vì đâu đó trong trí nhớ xa xăm đã thấy vài lần. Đâu nhỉ, nàng lục soát lại quá khứ, thuở ngày xưa còn là sinh viên, mình có quen một người con trai nào tên Tường hay tên Tưởng? Đành chịu thua, thời gian đã đào mòn đục đẽo mọi dĩ vãng để bây giờ nàng trở thành kẻ trần trụi bơ vơ giữa hiện tại không có trọng luợng.

Hay là kiếp trước mình là người yêu của ông ta chăng, ông này lại có tật nhớ dai, nhớ đến cả tiền kiếp mình.

Anne thử lại một lần nữa, nói lại một "sự thật" cho hai người, để xem ai là kẻ nhớ kẻ quên.

- Tôi không phải là Như An, người yêu xưa của ông đâu.

Lần này ông có vẻ giận dữ, phẫn nộ:

- Đừng có đùa, em đã từng viết cho anh hàng chục lá thư tình lúc ấy ở Sài Gòn. Anh đọc thuộc lòng, đọc đi đọc lại bao năm nay rồi, em muốn anh đọc cho nghe không, chúng ta yêu nhau đến thế mà em quên rồi sao?

Trời ơi, thế này thì chết thật. Anne run rẩy đưa ly vội nước cam lên môi uống một hơi.

- Có thật em quên anh rồi sao?

Ông thở dài:

- Trên đời này anh còn mỗi mình em thôi.

Nước mắt Anne muốn trào ra, sao lại có một người thủy chung đến thế vậy.

Ông Tường ơi, tôi muốn tâm sự với ông, tôi muốn kể về tôi cho ông nghe thế này:

"Từ lúc qua đây, tôi sống xuôi theo ngày tháng, tôi không biết rồi tôi trôi về đâu; Lưỡi tôi nhạt, lòng tôi tê, tôi không nếm được, tôi không cảm được, bởi mọi khát khao tôi mơ ước đã chết chìm theo đứa con trai độc nhất, tôi đem con đi để cầu lấy tương lai cho nó. Con chết, mẹ sống, con tôi, thằng bé có cặp mắt rực sáng như mặt trời trên biển đông. Thế là tôi chẳng còn nhìn thấy nó, con tôi không còn nhìn thấy tôi. Mọi người khác cứ cho rằng mặt trời lặn mỗi buổi chiều và mọc lại vào mỗi buổi sáng mai. Nhưng riêng tôi, mặt trời chẳng bao giờ làm thêm một bình minh nữa, mặt trời đã chết. Còn chồng tôi? Ông ấy đã bị thất lạc từ ngày 30 tháng 4, sau đó bạn bè tôi đã thư về cho biết tìm thấy ông sống chung với cô bạn tôi ở Cali. Tôi ra đi với con nhưng lên bờ chỉ một mình. Tôi xin đến Pháp sống đời lặng lẽ, tôi khai trên giấy tờ rằng tôi độc thân, không chồng, không con, không cha mẹ họ hàng anh em, tôi tránh xa những người đồng hường cùng tiếng nói, bởi vì khi nhìn thấy họ, quê hương lại trở về, chồng lại hiện ra, con tôi lại nói nói cười cười. Tôi xin làm việc với người Tây, tập nói tiếng Tây, tôi có bạn đầm và sống độc thân đơn lẻ như Tây, tại sao ư? Tại tôi muốn hóa thân, hóa kiếp để đừng nhớ lại. Người ta phải chờ chết mới luân hồi kiếp khác, tôi chẳng phải đợi chết, tôi luân hồi tôi ngay tại kiếp này. Tôi làm đơn xin vào quốc tịch Pháp với tên Marie Anne, còn họ Nguyễn, tôi muốn đổi cũng không được, vậy tôi là Marie Anne Nguyễn, ngày sinh tháng đẻ tôi cũng đổi luôn, cho nên chẳng khi nào kỷ niệm Anniversaire, ông Tường ơi bởi vì tôi muốn tẩm liệm quá khứ".

Miên man trong đầu như thế, Anne biết rằng mình còn nhớ được một quãng đời mình rồi. Vậy người đàn ông trước mặt chính là một người không bình thường, nhưng ông là người biết quý tình yêu, biết trọng tình yêu hơn cả mọi điều trên thế gian này. Nước mắt một lần nữa từ từ quá khứ thảy xuống. Anne bỗng muốn xác nhận mình là Như An, như một người tình xưa đã xa nhau lâu quá nay mới gặp lại nhau. Nàng không muốn là Marie Anne nữa, vì trước mặt có một người đàn ông đáng được kính trọng và yêu thương, Anne muốn cầm lấy bàn tay của ông và nói rằng em là Như An, Như An thật của anh đây.

Nhưng đầu óc nàng chóang váng, sự xúc động làm đường máu chạy nhanh. Khuôn mặt ông Tường trở nên mờ mờ ảo ảo, hình như ông ta mỉm cười. Đôi mắt ông nhìn xa xa, vào một cõi mênh mông diệu vợi nào đó, cái nhìn như cái nhìn của người đàn bà thắt nơ đỏ, nụ cười của ông như nụ cười của cô gái trẻ.

Anne nhói đau, xót xa cho ông, xót xa cho mình, tại sao ông muốn tìm về quá khứ, trong khi mình, mình muốn quên hết. Một người đàn ông điên đi tìm trí nhớ, một người đàn bà không muốn đánh mất trí nhớ.

Anne muốn chắp quá khứ của người đàn ông vào quá khứ của mình. Nàng muốn được yêu như ông Tường đã yêu.

Sau lần gặp ấy, bẵng đi mấy hôm không thấy ông Tường, Anne đâm ra bồn chồn lo lắng, nàng không bình thản dửng dưng như mọi ngày hôm trước. Buổi chiều về, bước chân lóc cóc của nàng trên vỉa hè lác đá hoa cương vang dội một âm thanh sâu thẳm lạnh lẽo trong lòng nàng.

Đang ao ước gặp ông ấy, thì ở góc phố, ông Tường hiện ra trông khoẻ mạnh hơn hôm trước, nét mặt rạng rỡ.

- Hôm nay cô đi làm về muộn thế.

Anne mỉm cười, ao ước đã có được, hai người chọn một chiếc bàn ở phía ngoài trời quán cafe hôm trước, Paris đang xuân, lề đường tràn ngập khách ngồi nhâm nhi.

Ông Tường nói bâng quơ:

- Nhớ cafe Sài Gòn quá.

Hôm nay ông ăn nói tỉnh táo, chậm rãi, xưng tôi và gọi Anne là cô, không còn anh , không còn Như An nửa, một chút nuối tiếc nơi Anne, ông ta dần dần trở lại bình phục, thế mà nàng lại muốn ông khác hơn, như hôm trước, trong cơn mê.

- Tên cô là gì nhỉ?

Anne phật lòng, đã nói một lần rồi mà không nhớ sao.

- À, hình như Marie.....Marie gì nhỉ?

Anne im lặng, nàng chỉ muốn gọi mình như tên người yêu ngày ấy.
 

estrella

Active Member
Nhưng ông không nhớ tiếp, hoặc ông không muốn gọi một cái tên chẳng có gì kỷ niệm riêng của ông. Ông mỉm cười bao dung, ngụ ý rằng cái tên nào đi nữa cũng chỉ là một cách gọi.

Người đàn bà trước mặt ông thể hiện trong ông một khối dĩ vãng toàn vẹn say đắm, một vùng tơ mềm trắng muốt.

- Thế cô qua đây lâu chưa?

Hỏi mà như không chờ đợi câu trả lời, ông chờ đợi một điều gì khác nơi Anne, Anne im lặng nhìn ông chăm chú, ông tiếp tục nói:

- Tôi ở phòng 208 bệnh viện bên kia đấy, chắc cô hiểu rồi, xin cho tôi số điện thoại và địa chỉ, để hôm nào khoẻ tôi đến thăm cô.

Anne ngần ngại trả lời:

- Tôi không nhớ số điện thoại, bởi vì tôi không bao giờ gọi cho tôi cả.

- Phải rồi cô nói đúng đấy, vậy thì thôi.

Giọng ông nói đều đều, không vương vấn một chút xúc cảm nào cả. Khi bắt tay ông, ông dịu dàng trao qua tay Anne một cảm nhận êm đềm, bàn tay như tìm kiếm một quá khứ ngọc ngà đã mất, chợt biết nó trở về, tìm thấy ngyên vẹn và đang đợi chờ.

Anne lúng túng khi thấy ông Tường giữ tay mình quá lâu trong tay ông. Ngày xưa hiện ra từ từ đâu đó, ngày xưa còn con gái. Nàng rút tay lại, quay lưng hấp tấp đến trạm Métro về nhà.

Mấy hôm sau không thấy ông, hôm sau nữa cũng không gặp nhau, Anne về đến nhà với trạng thái bức rứt, một tuần rồi hai tuần trôi qua, căn nhà đã thấy vắng, thấy lặng lẽ hơn mọi ngày. Anne quay quắt với mình, hai lần gặp gỡ với ông Tường, một lần say như mê man, một lần tỉnh như lạnh lùng, đã để lại hồn Anne một quyến rũ mới thấy lần đầu.

Tại sao mình không đến bệnh viện thăm ông ta nhỉ, Anne suy nghĩ, phải rồi đến thăm ngay chiều nay khi tan sở.

Cô y tá giở hồ sơ tìm danh sách bệnh nhân, phòng số 208, bệnh nhân tên Tường đã khỏi bệnh xuất viện.

Anne hoảng hốt hỏi ông ấy về nhà đã lâu chưa, cô y tá trả lời cách đây một tuần.

Tại sao mình không đến sớm hơn một tuần, tại sao mình không đưa ông số điện thoại, chắc hẳn rằng trước khi rời khỏi đây, ông đã nhớ mình nhưng không biết làm cách nào.

Cô y tá chợt nhìn Anne, gọi Anne:

- Xin lỗi bà, ông ấy có để lại một lá thư dặn rằng nếu có người đàn bà nào đến tìm thì xin giao lại, chắc là thư của bà.

Anne cầm bức thư, hỏi thầm ông Tường rằng chỉ có một mình tôi, độc nhất mình tôi là người đàn bà đến đây thăm ông phải không.

"Em, anh đã trở về nhà địa chỉ.......trạm métro Montparnasse-Bienvenue. Dù em không phải là Như An đi nữa, thì chúng ta đã thấy nhau, gặp nhau. Anh và em đã chờ đợi nhau trong suốt bao năm nay".

Nàng mỉm cười, nghe mơ hồ có tiếng gọi xa xăm, nàng vội đi ra cửa, quên cả chào cô y tá, hấp tấp vội vã trên vỉa hè lát đá hoa cương, những bước chân gót nhọn lóc cóc reo vui tưởng chừng như tiếng gõ gõ vào một cánh cửa. Cánh cửa hạnh phúc rồi sẽ mở.......
 

estrella

Active Member
Giai nhân

Nguyễn Thị Thu Huệ

Sao đứng bên cửa sổ. Một bên là bức rèm xanh lá cây. Tóc Sao đổ xuống vai, buông thả. Cô đứng lặng phắc, hình như nín cả thở.

Không phải là hít không gian một buổi chiều gió chuyển mùa mà nghe gió về tiếng lá cây cụng cựa, cái lá nào già thì chuẩn bị rơi. Phía đằng đông ngôi nhà, thỉnh thoảng có tiếng khóc nỉ non, câu được câu mất, giống như lời than vãn của một kẻ buồn ngủ, lên xuống như nước thuỷ triều. Mùi hương trầm đặc vón vén, đùn đùn từ trong nhà ra để lấp đi mùi tử khí. Người chết nằm đó đã ba ngày. Để đợi những người thân về mang trả lại cho đất.

Phía đằng tây, khói cũng bốc mù mịt. Lại là khói, nhưng không phải là khói hương mà là khói nướng chả. Đời người, hình như ai cũng có một cái thú riêng. Thú kiếm tiền. Thú tiêu tiền. Thú ăn ngon. Thú mặc đẹp. Thú nói xấu sau lưng người khác. Thú thọc gậy bánh xe… Hàng xóm của Sao là gia đình sáu người, hai vợ chồng và bốn đứa con có cái thú ăn thịt chả nướng. Sáng ra, mỗi người một ngả toé đi tìm kế sinh nhai. Những đứa trẻ đi học. Tối về, quần tụ quanh mâm cơm chung thân chả nướng. Nhiều khi khói cuốn lên trời đến mù mịt cả phố. Ngày nào họ cũng ăn bún chả nhưng dáng điệu sung sướng chờ mong như thể mới ăn lần đầu vậy. Một ít thịt dọi ế của chợ chiều, lại chợ ngày hè nên miếng thịt cứ xanh và mềm ướt đi. Họ tẩm ngũ vị hương, húng lìu và đủ mọi gia vị nên hương nó quyến rũ lắm. Ai biết đấy là đâu. Bún chả là món ăn vừa bình dân, vừa quý tộc. Sáu người châu đầu vào cái mâm, một rổ rau sống, hôm thì rổ bún, hôm thì nồi cơm, ăn húp xì xoạp. Người vợ thường ngồi ở giữa, lúc gắp cho con trai miếng mỡ, con gái miếng dính tí nạc, chan cho chồng ít nước mắm. Hiếm khi thấy người vợ ăn thịt, chỉ chan nước mắm là lùa được mấy bát. Sao không hiểu cái gì làm họ có thể ăn ngon miệng đến thế?

Trước mắt, cách một khoảng sân là nhà của mấy anh em trai. Họ chuyển về đây được gần tháng. Nghe nói, năm anh em có một ngôi nhà to, cũ kĩ bao đời của ông bà cha mẹ để lại, ở mặt phố chính. Bố mẹ họ ở bên Pháp và đang làm thủ tục bảo lãnh cho các con cháu sang. Họ bán phéng đi, trích một ít tiền mua căn nhà này. Hà Nội bây giờ rồ lên phong trào xây khách sạn mini, văn phòng đại diện theo tiêu chuẩn quốc tế cho người nước ngoài thuê nên ngôi nhà bán được trăm cây, chia năm mỗi người giữ hai mươi cây. Trừ tiền mua chung căn nhà này, còn của từng người là mười mấy cây, chờ ngày có giấy đi Pháp. Họ dọn về đây, hôm trước hôm sau như lột xác. Mỗi người một cái xích bằng vàng một cây ở tay. Dây chuyền một cây ở cổ, đồng hồ nửa cây ở tay, kính của Mỹ và ngang lưng một bao đeo. Từ đầu đến chân là toàn đồ xịn! Quần quả bom, áo xiu Nhật và nước hoa thơm nồng nàn. Mỗi gia đình một hai chiếc xe máy bóng như gương, phóng bạt phố. Nghe nói, hôm họp chia tiền, họ chi mất một triệu để thuốc nước. Họ sắp rũ bỏ cái tên người Việt Nam, để trở thành người ngoại quốc.

Gió cuốn khói bay lởn vởn trong không gian. Dưới đường lá khô chạy lào xào. Sao thảng thốt nhận ra là ngày lại sắp qua đi. Mùi thịt nướng chả lâu nay như một thứ đồng hồ tự động. Nhiều nhà thấy khói lên là đi gọi con cái ở các ngõ ngách về tắm rửa. Có nhà đi vo gạo thổi cơm. Có đôi vợ chồng già đóng cửa đi dạo phố hóng gió chiều. Mùi nướng chả gợi cho dân xóm quanh quẩn một cảm giác là họ đang cùng nhau tống tiễn một ngày, nhãng đi một cái là qua tháng, lâu lâu hơn tí nữa hết một năm và chớp mắt vài cái hết một đời người.

Hai cái mùi: Thịt nướng và trầm hương đang quật nhau túi bụi để giành phần thắng. Cuối cùng, mùi thịt nướng đã thắng vì nó được sự hỗ trợ của người đàn bà sáu mươi tám cân thịt đang ra sức dùng hai cánh tay quạt túi bụi, cộng với mỡ thịt gặp phải lửa thì bén lắm.

Người đàn bà nằm trong cỗ áo quan nghi ngút khói hương kia năm nay bốn mươi hai tuổi. Bà có hai đứa con, lớn cả rồi. Cách đây sáu năm, bà bỏ chồng theo một chàng trai kém gần chục tuổi dọn về đây sống. Chồng cũ nuôi con. Ít sau, chồng cũ đi nước ngoài, hai đứa con phiêu dạt đến khi mẹ chết cũng không biết mà về. Thấy bảo, người đàn bà này uống rượu và hút thuốc nhiều, lại cuồng nhiệt nữa. Bà ấy đẹp lắm, mắt nhìn ai người ấy chỉ ngẩn ngơ, cái khoé miệng như dấu phẩy, duyên dáng cả khi đi ngủ. Lấy chồng mới được ba năm thì chàng trai đó ngoại tình với một con bé mười tám, người đàn bà đau khổ, sinh bệnh rồi thành ung thư tuỵ và chết. Sao còn nhớ. Ngày về đây, bỗng Sao nhìn thấy người đàn bà đó. Bà ta đang khoẻ mạnh, tóc cặp cao, mặc bộ váy đen, hai cánh tay hở ra trắng nõn đứng tưới những chậu hoa. Sao ngơ ngẩn như thể ngắm một bức tranh nghệ thuật.

Sao như hoá đá. Thỉnh thoảng có gió lộng cuốn tung rèm cửa đập nhẹ vào người Sao, cô rùng mình. Những cơn gió quí hiếm trong một mùa hè. Xa xa, sau màng mây ghi sẫm, trăng đầu tháng nhạt thếch như có như không.

Hết rồi. Tất cả thế là hết. Cách đây mười lăm phút, Sao đã đập tan chiếc máy điện thoại. Ba ngày trước, bỗng nhiên Sao thấy hụt hẫng một cách vô cớ, lòng dạ hoang vắng, nhạt thếch. Mùi bún chả nướng từ hàng xóm bay sang nhắc cho Sao thấy đã qua một ngày. Sao mới chợt nhận ra ngày hôm nay cái điện thoại im phăng phắt như thể bị đứt dây hoặc là không tồn tại trong ngôi nhà này. Mới hôm qua, và dài đằng đẵng những năm trước đó, nó liên tục kêu réo như một con dê bị đói triền miên. Bảy giờ sáng, đã reng reng, mười hai giờ đêm cũng còn reng reng. “Alô, em đấy à, anh đón em đi ăn sáng nhé”. “Alô, Sao ơi, cái lão Thanh cơ quan tao cứ dứt khoát bắt tao đón mày đến dự sinh nhật lão tối nay. Mày vì tao mà đến nhé, tao đang nhờ lão một việc”. “Alô, trưa nay em đi ăn cơm với tôi nhé, tôi cần em”. “Alô, chiều nay lên hồ Tây bơi thuyền được không cô bạn nhỏ?”. “Alô… chúc em bé của anh ngủ ngon”. “Em là của anh hồi nào vậy?”. “Bây giờ thì chưa nhưng sắp”. Cười. Alô, alô, alô. “Vào mùa sen rồi, hoa thì chưa có nhiều, mới chỉ có những ống nụ đen đen thôi nhưng chiều nay anh sẽ lên Phủ Tây Hồ mua cho em một bó nhé, thơm tuyệt vời”… Alô…

Thế rồi. Bỗng dưng. Im bặt. Sao đến bên cái gương và nhìn thấy hình mình trong đó. Mí mắt sụp sụp, dưới mắt mòng mọng sưng, hai vành môi đã bắt đầu đen và lỗ chân lông trên mặt to ra như những đầu tăm. Bên ngoài khung cửa, gió đưa mùi nướng chả bay quấn quýt. Sao thì thầm: một hai ba… nếu đến ngày kia mà không có ai gọi cho mình, có nghĩa là mình không còn tồn tại nữa. Mình sẽ đập tan nó ra. Một tia hy vọng hé lên. Hay là điện thoại hỏng? Sao nhấc vội lên, cầu mong nó im thin thít để chứng tỏ tại máy chứ không phải tại người. Trong máy, tiếng tút dài, rành mạch chứng tỏ sự hiện diện vừa rõ ràng vừa trung thành của cái điện thoại có ở đấy bao nhiêu đời rồi. Sao quay số. “Nhà Hàn đấy phải không?”. “Hàn đi vắng rồi, nhắn gì không?”. “Không ạ. Cảm ơn. Xin chào”. “Không dám”. Lại tút dài.
 

estrella

Active Member
Ngày thứ hai. Sao quanh quẩn trong bốn bức tường và dọn dẹp lặt vặt. Cơ quan đi nghỉ mát bốn ngày ở Bãi Cháy, chỉ mình Sao ở nhà. Nghỉ mát ư? Đi với ai khi người nào Sao mời cũng có những lý do rất chính đáng để mà từ chối dưới một bộ mặt tiếc thương vì không đi với Sao được chuyến này. Biển thì lúc nào cũng thế, chỉ đẹp và tình khi có tri âm. Chẳng lẽ một người đàn bà ba mươi tám tuổi, xinh đẹp chưa chồng lại đi biển một mình bằng cái xác rỗng tuếch, còn tinh thần thì ở lại nhà rối như một mớ bòng bong. Cuộc tình đầu tiên năm lớp mười một, chàng trai đưa Sao đến sinh nhật một người bạn. Sau khi nhẩy cùng Sao một bài, chàng trai mời luôn cô bạn xấu nhất trong đám đang nép vào một góc vì tủi thân ra đi một bài xì lô. Sao dỗi, chàng bảo: “Anh yêu em nhưng anh thương cô ấy lắm. Người ta bị mặc cảm là người thừa nên anh an ủi cô ấy, họ đồng loại với mình, mắc mớ gì mình xa lánh”. Sao không nghe, họ cãi nhau và chia tay vì Sao hiếu thắng.

Bốn tháng sau. Lại một cuộc tình khác. Sao lao vào với quyết tâm: trả thù chàng trai đầu tiên cho biết mặt. Yêu đương, hồi hộp, dạo chơi, mút kem và nhấm ô mai. Cãi nhau. Làm lành. Cãi nhau. Bỏ nhau.

Sau mỗi lần chia tay với người yêu. Sao lại một lần ngẩng cao đầu thách đố. Năm năm đại học Vật lý qua đi, cô chỉ luôn nhìn thẳng không chớp mắt. Rồi lại yêu, lại hồi hộp, lại giận hờn. Cuộc tình nào mà chả có bắt đầu và kết thúc như nhau. Cứ tưởng là vĩnh viễn, là duy nhất nhưng cuối cùng, phù phiếm cả. Người đàn ông đó, một đêm đông lạnh buốt đèo Sao về, anh sung sướng hạt bạt tiếng gió: “Giai nhân ơi, xin em chớ buồn, người yêu em đẹp lắm, người yêu em tuyệt lắm”… Sao cấu vào sườn anh: “Không làm giai nhân đâu. Đời giai nhân bạc lắm. Ứ thích giai nhân”… Anh cười, dừng xe quay lại hôn lên tóc Sao: “Thôi vậy, không làm giai nhân thì thôi, làm vợ, vợ anh được không?”

Rồi cũng qua đi. Yêu đương. Giận hờn. Tự ái. Tự trọng của tuổi trẻ là sự hiếu thắng. Sao thề: “Em sẽ ở vậy suốt đời, chỉ lấy chồng khi nào anh lấy vợ mà thôi”. Chàng trai van vỉ: “Tha lỗi cho anh, anh phải đèo mẹ về quê nên sai hẹn em. Lúc về, chị nhờ mua hộ mấy bao xi măng, chẳng nhẽ anh mình đi vắng, có mình chị dâu lại không giúp. Tội nghiệp chị ấy. Sao lừ mắt: “Thế còn ai tội nghiệp tôi?”. “Anh giúp đỡ những người trong gia đình, mai kia đấy là mẹ, là chị em chứ có phải vớ vẩn ngoài đường đâu?”. Sao dửng dưng: “Ừ thì tôi đi đường tôi, để anh còn về cùng mẹ và chị dâu suốt đời”. Họ không gặp nhau nữa vì ai cũng thừa lòng tự trọng, thiếu tính vị tha.

Đừng một cái, hai mươi ngày sau, Sao hiện ra ở nhà chàng trai: “Em có con rồi, vừa đi thử ếch về”. Chàng trai đang cầm cái xẻng trộn vữa cho nhà ông anh, thả rơi xuống đất, vồ lấy Sao: “Thật không? Chắc không? Thế thì anh bàn với bố mẹ xin cưới em ngay. Trời đất ơi, tuyệt quá, thế là anh có quyền vênh với mấy thằng bạn thổ tả rồi, bọn nó cứ bảo mặt anh không có râu là anh không có con. Thế mà anh cứ tưởng là mất em mãi mãi, cô bé ngang ngạnh của anh. Bây giờ thì anh được cả trâu lẫn nghé”.

Sao lặng người, nói nhỏ: “Tôi không muốn giết tuổi trẻ của mình bằng con đường tự biến mình thành con ở. Tôi còn quá trẻ để ngồi ôm con cửa sổ ngóng chồng đi làm về mỗi sáng, mỗi chiều. Tôi còn phải học, phải phấn đấu để có một cái tên trong cuộc đời này thành bà nọ bà kia mới khó, chứ thành vú em khó gì. Mai, anh xin giấy chứng nhận cơ quan anh, khai tên chị tôi trong hộ tịch của tôi, tôi sẽ đi phá”.

Tất cả vỡ vụn trước mắt chàng trai. Nước mắt chàng ứa ra, môi run rẩy: “Sao ơi, chẳng nhẽ em không hiểu anh yêu em đến thế nào sao? Chẳng lẽ vì những chuyện cỏn con mà em nỡ giết đứa con của chúng mình sao? Anh sẽ nuôi con, sẽ làm hết, miễn là em đẻ nó ra thôi, chỉ cần em đẻ thôi. Anh là con một, bố mẹ anh mong có ngày được bế cháu nội lắm, em sẽ đem hạnh phúc đến cho anh và mọi người. Anh xin em. Chẳng lẽ cái mặt anh khốn nạn lắm hay sao mà em thù anh lâu thế, yêu thì phải biết tha thức chứ?”.

Sao ngoảnh đi cười nhạt: “Con ư, con là cái gì? Nó đem lại cho đời tôi cái gì ngoài sự sồ sề, nhếch nhác và ngu si? Con à, con để làm gì khi trước mắt tôi là bao nhiêu con đường. Lấy anh, rồi cứ một năm tôi sản xuất cho anh một đứa vì dòng họ anh vắng người, lại đẻ như gà ấy à? Mai tôi dứt khoát phá, đã biếu quà bác sĩ rồi, nhớ khai tên chị gái tôi chớ dùng tên tôi đấy”.

Sau đó, họ không bao giờ gặp nhau nữa. Chàng trai, sau khi chăm sóc Sao chu đáo như một người chồng đích thực đã ra đi để lại cho cô một số tiền bồi dưỡng và gọi cô là ác phụ.

Ngày tháng qua đi, Sao vẫn sáng lấp lánh giữa những người xung quanh. Cô ra ở riêng vì thích tự do. Giờ người ta ăn thì cô ngủ, giờ người ta ngủ thì cô chơi, người ta nghỉ ngơi thì cô làm việc. Căn nhà nhỏ bé không có gường, chỉ có một cái đệm, một chiếc tủ ngăn dưới đựng quần áo, ngăn trên bày những chai rượu Tây, và một bát hương quanh năm nghi ngút khói. Một cái điện thoại đổ chuông suốt ngày đến toát mồ hôi.

Ngày thứ hai trôi qua. Im lặng. Mùi thịt nướng đến giờ lượn qua khung cửa, ban đầu thì lãng đãng, sau đậm dần lên. Hôm nay chắc dư dật tiền nên mua thịt nạc, khói đặc và khét khô chứ không nồng nàn ngào ngạt như hôm trước. Sao giật mình vì biết lại một ngày qua đi đến nơi rồi. Sao không ai đến, cũng không ai gọi điện như thể một cơn lốc đã cuốn đi hết và thả họ xuống một vùng khác? Thỉnh thoảng, ký ức lại dội về bởi người đàn ông không râu nhưng lại rất dễ có con, đứa con không thành duy nhất của Sao ngày đó. Thật là ngu xuẩn khi thách đố đàn ông. Việc gì phải tinh tướng với họ cơ chứ? Bây giờ thì Sao hiểu là mọi sự không như Sao nghĩ và mong muốn. Sao tưởng người ta sẽ đau đớn dằn vặt suốt cuộc đời, sẽ chỉ có bóng hình cô trong tim… Nhưng không, hơn một năm sau, anh ta lấy vợ, loáng cái đã thấy một tay dắt, một tay bế những đứa trẻ con, vì anh ta là người thích có nhiều con. Còn Sao chợt sững người và hiểu rằng, mình yêu người ta hơn người ta yêu mình. Đời người đàn bà thường ngắn hơn đời người đàn ông mặc dù tuổi thọ thì lại nhiều hơn. Đó là một nghịch lý. Đàn ông sáu mươi tuổi còn có tình yêu, đàn bà thì hiếm hoi lắm. Mẹ bảo, ngày Sao dọn ra ở riêng: “Mỗi một người con gái là một bông hoa. Trong rừng hoa, có bông đẹp bông xấu. Bông nở sớm. Bông nở muộn. Điều đó không quan trọng bằng loại hoa gì để lại trái cho đời”. Sao cười, mẹ ơi, bây giờ có phải là thời mẹ đâu mà mẹ ví von như thế.

Ngày thứ ba. Có là rồ mới đi thách đố thời gian. Cái điện thoại vẫn im thin thít như dỗi hờn. Cánh cửa không tiếng gõ. Những bậc cầu thang gỗ không tiếng chân người. Hay là họ bận? Nhà ông Y. Số điện thoại đầu 3… “A lô, anh làm ơn cho tôi hỏi, anh Y có nhà không ạ”. “Anh ấy đi rồi, đêm hôm qua anh ấy về khuya lắm chị ạ, sáng sớm đã thấy dắt xe đi, chị nhắn gì không?”. “Không, tôi không nhắn gì cả.”… Alô, anh làm ơn cho tôi hỏi anh V có ở phòng hôm nay không ạ?”. “Cô ở đâu đấy, cả phòng ấy đi nghỉ mát từ hôm qua rồi”. “Họ nghỉ ở đâu ạ?”. “Bãi Cháy”… Trời ơi, nghỉ đúng ở Bãi Cháy, cái nơi mà mình từ chối không đi vì nghĩ rằng người ấy ở nhà… Hoá ra là mình ở nhà còn người ấy đi, cũng như cái kẻ mà mình tưởng nó sẽ phải thương nhớ mình suốt đời thì nó lại lấy vợ và đẻ một lũ con, còn mình thì vẫn chờ để trả thù. “Alô… Hải đấy à?”. “Không, thằng Hải nó đi vắng rồi, em là ai đấy có cần gửi cho nó mấy cái “hòm” không, anh chuyển hộ”. “Không, không gửi gì cả, cám ơn anh…”.
 

estrella

Active Member
Loang trong không khí mùi chả nướng. Sắp qua ngày thứ ba. Thỉnh thoảng, mùi khói hương thừa cơ lẻn vào giữa đám hơi thịt nướng, thơm đến tội nghiệp. Nó giống như một đoàn lực điền to béo hùng hổ đi cuốc đất. Thỉnh thoảng có một chú thư sinh chui vào luồn lách rồi chạy thoát thân. Thôi, thử một lần cuối cùng. Sao quay số 17. Tít. “Kính chào quý vị. Hôm nay, ngày 26 tháng tám năm một nghìn chín trăm chín mươi ba. Tít. Bây giờ là mười tám giờ ba phút mười bẩy giây”.

Choảng. Dây đứt và cái điện thoại văng ra, vỡ một góc.

Sao đến bên cửa sổ. Ngôi nhà của mấy anh em trai đang có tiếng chửi nhau. Tiếng đồ đạc vỡ. Tiếng la hét và tiếng trẻ con thét lên. Những tiếng chửi tục tữu và bẩn thỉu văng toé loe. Sao nghe người ta kể là ông bố bà mẹ của năm cậu con trai đó bỗng dưng nhớ quê hương da diết. Họ bảo, có tiền về quê mình vẫn sướng hơn. Họ lại già rồi, ăn là mấy, ngủ là mấy đâu mà cần ở những bên Pháp. Ở đó, không bạn bè lối xóm thân quen, không thích những phong tục tập quán xa lạ, cái gì cũng đắt đỏ tốn kém trong khi cũng cái tiền đó ở quê nhà sống như đế vương. Cóc chết ba năm quay đầu về núi. Họ gửi thư và đánh điện về báo các con ra đón bố mẹ ở sân bay thay vào việc các con phải vất vả chu du xứ người. Tiếng thì không biết, nghề nghiệp cũng không. Ăn làm sao nói làm sao giữa một cộng đồng khác? Thế là sau một thời gian ngắn, một trăm cây vàng tiêu gần hết vào các loại đồ xịn, từ cái máy đánh lửa đến chiếc khăn mùi xoa, dôi giầy dưới chân lẫn cái kẹp tóc. Các cháu thì nghỉ học trường ta, chuẩn bị sang nhập trường Tây. Năm bà dâu như năm bà hoàng, năm ông con trai như năm giám đốc văn phòng đại diện của các hãng kinh doanh nước ngoài tại Việt Nam, bỗng chợt thấy chật chội, bức bối trong căn phòng ba mươi bốn mét vuông, chứa mười tám người, và chuẩn bị đón thêm hai ông bà già nữa về, thành hai mươi.

Có tiếng đấm cửa. Sao sững người, ngoảnh phắt ra nghe ngóng xem có thực ai gõ cửa nhà mình không. Lại tiếng đấm, lần này mạnh hơn. Ai nhỉ? Ai đến với tôi lúc này nhỉ? Tiếng gõ lạ quá, hình như chưa có bao giờ. Trời ơi, Sao run rẩy. Tôi thề, tôi thề sẽ yêu người gõ cửa này. Và sẽ lấy người đó làm chồng, bằng mọi cách. Tôi cô đơn quá rồi. Tôi chẳng cần gì nữa ngoài việc phải có ngay một gia đình. Tim Sao rung loạn xạ trong ngực như muốn bắn tung ra ngoài. Mình sẽ ôm người ấy, sẽ giữ người ấy cho mình. Mình sẽ không để tuột đi nữa, dù là ai. Cửa mở. Sao giật mình lùi trở lại, người như vỡ ra. Một người đàn ông gầy nhách bẩn thỉu, trong bộ quần áo caki từ những năm bảy, tám mươi vá víu chằng chịt đang gắng gượng đỡ cái đầu quá cỡ, đôi mắt sùi ngầu, đôi môi nhệch nhạt đầy vẻ quái đản nhìn Sao. Ông ta chìa một bàn tay to bè, ngắn chủn đầy bùn đất tanh lòm về phía Sao: Thanh toán tiền. Sao tức giận, máu trong người cô sôi lên, cô cũng không hiểu sao bổng nhiên cô giận thế: “Tiền gì?”. “Tiền thông cống và chọc hố xí bị tắc, cô quên à? Tôi đã phải dí mặt vào chỗ đó bốn tiếng. Ai đã tọng cả một cái quần bò và nắm rẻ rách”. “Bao nhiêu”. Người Sao bỗng chùng xuống như thể sắp đứt hơi. “Ba chục nghìn, không đắt đâu, nếu đi chỗ khác, còn được hơn”. “Tiền đây, không thiếu đâu, chỉ có thừa thôi. Và ông đi đi”. Nước mắt tràn ra đầy mặt Sao. Cô sập cửa lại. Người đàn ông làu bàu câu gì đó bằng một cái giọng rãi rớt và cắm cúi đếm tiền. Ông xếp nó thành từng chục, vuốt ngay ngắn phẳng phiu đầy vẻ kính cẩn rồi bỏ vào túi áo. Cái mùi rượu rẻ tiền lẫn trong mùi cống rãnh tanh tưởi thối tha còn lẩn quẩn mãi ở cửa mà không bay đi, dù người đàn ông đã đi từ lâu.

Sao nằm vật xuống đệm, nức lên. Khốn nạn thế. Sao người mỗi ngày một đông như kiến thế mà tôi thì cô đơn thế này? Ai đến với tôi bây giờ. Chẳng lẽ, cuộc đời của tôi, một người đàn bà ba mươi tám tuổi cứ thế này sao? Cứ đợi một cái gì mà chính mình cũng không biết. Bên ngoài cánh cửa kia, có thể là thiên thần, có khi là quỷ dữ, cũng không biết nữa. Cái thời mà mình được chọn lựa qua rồi ư?

Lại có tiếng gõ cửa. Ban đầu gõ nhè nhẹ, lúc sau to dần lên như tiếng đấm. Một âm thanh mỏng mảnh yếu ớt cố làm ra sức mạnh. Những người đàn ông đến rồi đi khỏi nhà này không có tiếng gõ ấy. Lần này thì Sao cẩn thận hơn và ít ra sai lầm cũng mới xảy ra, đã lâu gì để kịp quên. Sao ngó qua khe cửa. Không một bóng người, nhưng tiếng gõ vẫn vang lên. Có nghĩa là ai đó đang trêu mình. Mà trêu được có nghĩa không phải loại móc cống. Chúa ơi, xin hãy ban phước cho đứa con khốn khổ của Người, hãy đem chàng đến cho con, con xin Người… Con sẽ đi ra đường cùng anh ấy. Sẽ tắm mình trong những cơn gió hiếm hoi của ngày hè, sẽ yêu anh ấy, chung thuỷ với anh ấy. Sẽ chỉ tha thứ, chỉ đắp xây hạnh phúc dù muộn màng, dù anh ấy sẽ có những tật xấu. Sẽ không giận hờn, không phá phách và ích kỷ nữa. Con thề. Con xin thề. Sao vùng đến bên góc đệm, vớ lấy thỏi son tô mạnh lên môi, hai tay xới lại mái tóc rối bù và thoa ít phấn hồng lên má và mở cửa.

Một con bé con. Con của nhà hàng xóm chung thân ăn chả nướng. Sao sững lại, người lạnh buốt. “Cô ơi, tổ mình cùng đi viếng đám ma bác X. Mẹ cháu bảo cháu sang mời cô đi cùng đoàn. Mỗi người góp năm nghìn phúng và năm trăm tiền hương, cả thảy là năm nghìn năm trăm đồng, cô xuống ngay nhé kẻo mọi người đợi”.

Sao gật, nước mắt lại tuôi rơi… Thế là hết, dù con đã cầu xin và sám hối.

Sao xuống đường. Cô cầm sáu nghìn trong tay. Mắt đỏ mọng nước. Ba bà cụ già, hai ông cụ và mấy người đàn bà đang xếp hàng góp những đồng bạc lẻ, người tiền hai nghìn, người tiền năm trăm cũ kỹ và nhầu nát cho chung vào một cái phong bì. Nó cộm dầy lên. Có tiếng bà cụ già: “Tôi còn mỗi tờ mười nghìn định để dành hôm nào thằng cháu ngoại lên thì cho, nhưng thôi, đem cúng hết. Tội nghiệp người hồng nhan”. Sao nhìn cái phong bì lồng phồng đủ các loại giấy tiền. Đấy là cách duy nhất biểu hiện tình thương giữa những người chân đang dính vào mặt đất và cái người đang hồn kìa khỏi xác kia. Rồi cả đoàn kéo sang ngôi nhà cùng tổ đó để phúng viếng. Con bé đi bên Sao, nó thì thầm: “Thương bác ấy nhỉ cô nhỉ. Tại bác ấy cho con bác ấy đi nên không có ai nuôi đấy, mẹ cháu bảo thế. Còn cháu, cháu sẽ nuôi mẹ cháu, mẹ cháu sẽ không chết.”. “Ừ, cháu phải nuôi mẹ, mẹ vất vả vì cháu lắm”. Sao lại khóc. “Cô thương bác ấy nhỉ. Cháu cũng thương. Cháu không thấy sợ đâu, còn mẹ cháu thì sợ suốt đêm qua, hồi bác ấy còn sống, bác ấy hay cho mẹ cháu quần áo, hôm qua mẹ cháu tìm và mang trả lại rồi. À, cháu học giỏi, được thưởng tiền, cháu sẽ để dành mua áo cho mẹ”.

“Cháu có hay được thưởng không?”. Sao hỏi. “Có ạ. Bốn anh em cháu ai cũng được thưởng mỗi khi học giỏi điểm cao, cháu được nhiều nhất vì cháu bé nhất. Bọn cháu đều tiết kiệm và bỏ lợn, thỉnh thoảng bổ lợn liên hoan cả nhà. Cháu chỉ thích mau cho mẹ một cái áo”.

Cả đoàn bước vào căn phòng. Chính giữa là bàn thờ, khói hương ngầu cuận lên. Một khuôn mặt thanh tú, trong veo nhìn những người vào viếng như thể không hiểu tại sao lại có chuyện đó. Mái tóc bồng bềnh hai vai, đôi môi gọn gọn cười. Tiếng khóc lại ồ lên, ảo não và mệt mỏi, vì họ không còn sức nữa. Họ rên rỉ nhiều hơn là khóc. Cả đoàn đứng mặc niệm và đi quanh quan tài. Mọi người, kẻ thì tò mò, kẻ thì miễn cưỡng ngó vào khuôn mặt trong cái ô kính bằng hai bàn tay đó một cái. Sao cúi nhìn. Khuôn mặt người đàn bà chỉ còn là một khung xương, hai bên tóc đen nhánh xõa mềm. Và tất cả là những cái hốc. Hốc mắt thì xanh, hốc miệng thì đỏ vì khi liệm xác họ phải son phấn vào cho người chết đỡ nhợt nhạt, trông người đàn bà nghiêm trang, chỉnh chu. Sao rùng mình, bàn tay cô bóp chặt tay con bé: “Đừng nhìn, cháu còn quá bé để nhìn những cái đó”. Và cô lôi nó ra. Sao rùng mình, ít ra, với người kia mình còn hơn cô ta một cái, đó là cuộc sống. Cuộc sống là vô giá. “Cô ơi”. “Gì hả cháu”. “Cháu về ăn cơm đây, nhà cháu cứ đến bữa chiều là phải đầy đủ, bố mẹ cháu thích ăn cơm phải đủ. Xong cháu còn học bài. Bốn anh em cháu sắp được đi nghỉ mát cô ạ. Chúng cháu sướng lắm. Cháu chào cô, à, cô đừng khóc nữa nhé”. Nó bỏ chạy về phía khung cửa tràn lan mùi thịt nướng. Có tiếng trẻ con cười và giọng người bố đang nói chuyện vui gì đó.

Sao đi thẳng lên nhà. Người cô rỗng tuếch. Cô tiếp tục chờ đợi, bởi vì, dẫu sao cuộc sống vẫn là vô giá.

***
Giai nhân. Ôi giai nhân. Nhưng dẫu sao cuộc sống vẫn là vô giá…
 

estrella

Active Member
Người năm cũ

Nguyễn Ngọc Tư

Khi Hiên thôi học ở thành phố về, mướn căn nhà, treo cái bảng kẻ bằng bút lông lên giấy các tông "Viết hồi ký thuê" thì Hiên gặp lại người thương của má.

Bảy năm rồi, Hiên mới gặp ông. Ông ốm, xanh, ông không già đi bao nhiêu nhưng tóc đã rụng nhiều để lại cái trán rộng như sân bay Trà Nóc. Hiên luôn luôn thấy ông gần gụi và thân thuộc, cái cảm giác ông luôn luôn có mặt trong đời của Hiên mặc dầu chẳng thâm tình gì nhau. Cứ nói với một đứa bé mười, mười hai tuổi rằng cái ông đang nói trên ti vi hồi đó thương má mày đi, nó sẽ dõi theo ông ta bằng một sự quan tâm nào đó không lý giải được. Ngay từ khi còn vào tại chức, ông luôn xuất hiện trên mặt báo, trên ti vi với sự chân thật toát ra từ đôi mắt, một vẻ mặt trăn trở, đấu tranh. Hiên cho rằng đôi mắt thể hiện được con người. Ông từ chức chủ tịch trước nhiệm kỳ hồi cuối năm rồi với lý do sức khỏe kém, không đủ năng lực để làm việc. Hiên cố làm như mình chẳng bao giờ quen ông. Bảy năm, đủ để ông già đi và Hiên bỏ bộ dạng đứa học trò quê cũ. Hiên hỏi ông muốn viết hồi ký ở dạng nào. Hẳn nhiên là có nhiều cách viết khác nhau, để lại cho con cháu thì đào sâu về đạo đức lối sống, về buổi đầu lập thân cực nhọc ra làm sao để lại cho đòi sau cơ ngơi, sự nghiệp này. Nếu xuất bản hàng loạt thì chú trọng những công việc, thành tích trong đời... hoặc chỉ viết riêng cho một mình ông thôi, sống giấu kín, chết mang theo. Ông cười rất đẹp (đôi lúc có những nụ cười như thế làm cho tim Hiên thót lên một tiếng hít hà).

- Tôi muốn cháu viết cho người tôi yêu. Và viết thật.

Hiên thưa rằng Hiên sẽ viết thật nếu như ông nói thật. Ông lại cười. Má ơi?

Hiên thèm được viết thật dữ lắm chớ. Hiên vừa học vừa làm thêm việc viết hồi ký non hai năm. Hiên đã gặp nhiều khách hàng nghe họ kể về cuộc đời của họ. Ai cũng làm tỉ tỉ điều tốt, điều cao thượng hơi giống nhau, bày tỏ lòng nhân ái với thế giới, lòng thương mến với tất cả mọi người. Hiên nhận ra một quỹ đạo nhàm chán là không ai kể về những lỗi lầm của mình dù là từ thuở ấu thơ đã ngắt đuôi con chuồn chuồn đỏ nhét vào cọng cỏ hay về chú dế lửa bị mình nhốt trong cái lồng đất đã chết vì chật và buồn. Mà, Hiên cho rằng, hồi ký là phải thật, ai đời người ta lại gian dối với cả chính mình. Đôi khi cầm quyển hồi ký do chính tay mình viết ra, trình bày sạch sẽ, bìa đẹp, lật từ trang đầu tới cuối thấy người ta sống sao mà tốt quá, tốt thiệt, tốt đến không ngờ. Bạn bè cười vào cái ý nghĩ ngớ ngẩn của Hiên: “Thì tật con người ta vậy mà...”. Hiên biểu tin Hiên đi, thấy cuộc đời kiểu nầy không ham, không thấy vui đâu.

Ông không vậy, ông thủ thỉ với Hiên như một người bạn bên một người bạn thân thiết. Hiên cảm thấy cái quý giá nhất của họp đồng nầy là được ông tin cậy. Ông nói với Hiên về tuổi thơ, về quê hương, về tất cả nhưng chiến công và những lỗi lầm. Những nơi ông đến rồi đi và ấn tượng những người ông gặp. Buổi tối, trở về căn nhà vuông vức như cái bánh chưng, Hiên mở máy ghi âm để ghi lại giọng nói điềm đạm như thể dè dặt của ông và chợt nhận ra mình viết cái hồi ký không phải cho riêng ông. Hiên viết cho những đồng đội đã hy sinh xương máu để giúp ông lập nhiều chiến công. Hiên viết cho những người cộng sự cùng ông đưa cái địa phương nầy đi lên, được biểu dương thành tích. Và Hiên hạnh phúc viết về một bóng hình mơ hồ nào đó mà ông đã chia tay trong quá khứ nhưng luôn biểu hiện bên ông. Hiên không chắc đó có phải là má Hiên không. Thường thì đàn ông không nhớ sâu sắc và yêu sâu sắc như người đàn bà.

Ông sống một mình trong một căn nhà rộng, mặt ngó ra một con đường nhỏ chạy vòng vèo quanh một hồ rộng nhân tạo. Vợ ông qua đời gần tròn bốn năm. Họ không có những đứa con trai, con gái. Ông bảo bà yếu ớt, hay đau bệnh lắm. Ông cũng đang bệnh, mỗi sáng, mỗi trưa và tối, Hiên thấy ông uống một vốc thuốc. Hơi thở của ông cũng phảng phất mùi kháng sinh. Hiên hỏi thăm ông bệnh gì, ông cười, bệnh nhỏ thôi, mai mốt hết. Hiên hơi bần thần. Cô vẫn cần mẫn đến nhà ông như mọi ngày. Sáng nào ông cũng rang cơm và chừa cho Hiên một chén. Ông rang cơm rất ngon. Hột com se lại, giòn tan. Mùi tỏi vàng trong dầu nóng xộc vào mũi.

Hiên thường bưng chén cơm ra ăn ngoài khoảng sân hẹp rụng đầy bông điệp đỏ và ngồi xuống cái băng đá đặt dưới bệ cửa sổ. Màu của buổi sáng trong ngôi nhà nầy mới trong trẻo làm sao, Hiên bảo:

- Sống một mình khổ thiệt. Cháu sẽ làm mai cho chú một cô. Thím cũng mất lâu rồi, phải không, chú?

Ông lấy tay vỗ vỗ đầu gối Hiên, tay ông to, nhưng mềm và lạnh lẽo:

- Thôi, cháu. Trễ quá rồi.
 

estrella

Active Member
Hiên cười, chú vẫn còn trẻ chán. Ông chắc lưỡi, “tự nhiên thèm gặp một người” rồi quay sang hỏi Hiên có muốn nghe chuyện tình của ông không. Hiên còn chờ đợi gì mà không gật đầu. Hiên nhận thấy con người nầy luôn luôn vắt kiệt mình trong đám bùng nhùng thiện - ác, đúng - sai, giả - chân...

Cả trong tình yêu cũng vậy. Hai người ngồi trong cảnh buổi sớm đang vãi nắng lên cao.

Hiên tưởng như mình đang đi trên con tàu cuộc đời ông và đã qua bao ngoặc trái ngoặc phải, leo bao đồi dốc, băng qua những cây cầu sang sông rồi một ngày, Hiên nhìn thấy má mình như một ga xép hiện rõ dần lên trong đêm tối. Một ga xép với đầy đủ vẻ đẹp của nó: thầm lặng, đìu hiu, nhưng rất trân trọng đón đưa những con tàu xuôi ngược.

- Đó là thời đạn bom ác liệt, nhưng sáng nào cổ cũng chèo xuồng ra chi khu Rạch Ráng bán trầu. Tôi thương cổ từ ốp trầu cổ bó. Ốp trầu chắc nùi, hai đầu cong cong như mái đình làng. Những lá trầu xanh đằm lên nhau khăng khít không chèn lẫn một lá úa nào. Tôi thương cổ từ ngón tay cái bấm trầu đã mòn khuyết như trăng mùng tám. Tôi hoạt động trong vai một thầy giáo, “con” út của một bà má tiến bộ. Con trai má đi lính cho Ngô Đình Diệm đã bị tử trận, bà má đó quả quyết là con trai bà bị chính lực lượng cộng hòa dập pháo và bà muốn trả thù. Sáng nào tôi cũng ra bến chợ, xuống xuồng của cổ mua một ốp trầu cho “má”. Cổ không đẹp lắm, ừ, giống như cháu vậy, ở cổ luôn luôn lộ ra một nét duyên ngầm, càng nhìn càng thấy lạ, thấy thương. Cổ cũng thương tôi thiệt lòng. Ngặt cái cổ là con gái xã trưởng Ba Chi khét tiếng ác. Gia thế cổ là vậy. Cổ chấp nhận thương tôi mặc dầu cũng đoán được tôi ở phía nào trong cuộc chiến tranh này. Cháu cũng biết thân phận của tôi mà, ông nội tôi, ba tôi, các chú bác đều thoát ly đi làm cách mạng. Gia đình tôi phản đối dữ lắm. Tổ chức cũng không đồng ý. Nhưng lúc đó tôi còn trẻ, trẻ như cháu bây giờ, tôi nghĩ, tình yêu sẽ vượt lên tất cả.

- Cháu cũng nghĩ vậy, chú à. - Hiên gật đầu.

- Nhưng cháu còn trẻ, cháu có hiểu không? Chiến tranh vốn đầy bất trắc. Nó để lại cho tôi một niềm đau, lâu quá rồi mà còn đau hoài.

Hiên cũng vậy. Hiên biết buồn nỗi buồn chiến tranh từ ngày còn bé. Tụi bạn chơi trò “Việt cộng đánh quốc gia” bao giờ cũng đẩy Hiên về phía giặc. Thằng Đen lớn nhất, nó chống nạnh cười khì khịt; “Mày phải ở “bên nó”. Má tao nói hồi đó ba mẩy đi lính quốc gia”. “Bên mình” bắn “bên nó” phẳng phẳng. Hiên cũng bắn lại phẳng phẳng nhưng Hiên phải chết. Có khi nằm trên ổ kiến lửa để chết, Hiên giật nảy lên, giãy dụa, thằng Đen đứng vỗ tay cười chưa xong đã khóc mướt: “Con nhỏ nầy chết y hệt ba tao”. Hiên cũng khóc. Những đứa trẻ như thằng Đen, như Hiên mới tí tuổi đầu đã bị súng bập dừa bắn vào trái tim thơ ngây. Đen thôi hồn nhiên và Hiên thì ngơ ngác chết.

- Người ta mong hòa bình một, tôi mong tới chín mười, cháu à. Sau Mậu Thân, cơ sở bị lộ, tôi rút vô cứ. Địch ra sức đàn áp phong trào cách mạng. Tề ngụy gom dân vô ấp chiến lược, trong đó, nhà cổ đi đầu. Người xuôi kẻ ngược, cổ chỉ kịp đầm đìa nước mắt và hẹn nhau hai tiếng “hòa bình”. Coi lại, cả đời chúng tôi chỉ rượt đuổi nhau. Cổ bỏ nhà ra ấp chiến lược mới chín tháng thì chúng tôi mở rộng căn cứ về xóm quê cổ. Tôi dọn dẹp căn nhà đầy váng nhện và bồ hóng của cô để làm nơi làm việc. Hôm một bà má đi chợ về ghé báo con út Xuyến nó lấy một thằng lính ngụy, đêm đó bom bỏ vụn căn nhà. Tới bây giờ, tôi cũng không hiểu làm sao mình còn sống được, nhưng hôm đó, trong cái hầm nước lỏng bỏng, tôi tìm được trong hốc đất một cái khăn trắng thêu hai con chim đậu trên cành mận trổ đầy hoa, và một dòng thêu dở: “Đường dài ngựa chạy biệt tăm... ”

- ... “Người thương có nghĩa trăm năm cũng về ” - Hiên buột miệng, rồi giật mình, cô quấy quá thêm

- Cháu đã đọc câu ca dao nầy ở đâu rồi, chắc là trong trường học.

Ông gật đầu, dường như chớm bàng hoàng, ông nhẩm lại “người thương có nghĩa trăm năm cũng về”. Mặt ông hơi tái đi.

- Vậy tôi không phải là người thương có nghĩa rồi, cháu ạ. Tôi đã có thật nhiều cơ hội nhưng rồi đã bỏ qua. Năm tám hai, tôi chuẩn bị làm bí thư huyện thì nghe tin chồng cổ vượt biên.

- Và chú phải lựa chọn, hoặc làm bí thư hoặc phải từ bỏ tất cả không ai chấp nhận chú lập gia đình với một người đàn bà đã có một đời chồng là lính ngụy.

Ông nhìn Hiên kinh ngạc, trong mắt ông ánh lên một niềm đau xót:

- Cháu biết nhiều như vậy để làm gì, cháu gái?
Hiên có muốn biết nhiều đâu, đời dạy cô vậy mà. Cô không trả lời câu hỏi, chỉ thốt lên:

- Trời đất ơi, sao chú lại có thể đem tình yêu ra mà bì với mấy cái đó. Cháu mà yêu ai, cháu sẽ vượt qua mọi trở ngại để tới với người ta.

- Cháu đã làm thử chưa?

- Rồi - Hiên quả quyết.

- Có một lần, tôi cũng đã làm như vậy. Tôi về thăm căn cứ. Chiếc tàu hì hụi về tới xóm đã chạng vạng. Tôi lúc đó không nghĩ tới chuyện gì khác ngoài chuyện tôi sắp gặp lại cổ. Khi tàu ghé dưới bực kinh nhà Tám Muốt, tôi thấy cổ bơi xuồng đi đặt đó. Xuồng nhỏ, bóng cổ nhỏ, một mình. Nhìn tôi, cổ mừng tới xuống nước mắt. Tối đó, sau khi ăn đã đời bữa cơm bông súng nấu canh chua cá nâu, mắm sống, tôi chống xuồng qua sông. Hôm đó, tôi hơi say. Chắc tôi ngộ lắm nên đứa con gái nhỏ của cổ cứ nhìn tôi hoài. Tôi ngả mình trên võng mà khói cứ bay nồng mũi. Tôi còn nhớ mình nói rằng không chấp chuyện đã qua, tôi không ngại đứa con gái lên sáu tuổi của cổ. Tôi nói rằng cơn mưa xưa đã đem nguồn nước cũ về đầm. Cổ nằm trên một cái võng khác, giăng xéo qua hai cây cột, đưa con gái ngủ. Cổ chỉ khóc, khóc thật nhiều mà có nói được gì đâu. Vậy mà hai đứa thức, thở vắn thở dài tới sáng. Bữa sau, tôi đi thăm những bà con trong xóm căn cứ cũ. Vườn sau sân trước hố bom chằng chịt hố bom. Bảy năm sau giải phóng mà xóm rất nghèo. Những gia đình cách mạng ngày xưa hết mình nuôi nấng, che giấu chúng tôi cuộc sống rất khó khăn, mặc dầu bông súng đã nở trắng hố bom, bầy vịt ta lội ngủng ngẳng. Cạnh nhà tường đạn bom cháy xém bà con dựng lại căn nhà lá. Tôi về than, bà con mình nghèo quá. Cổ nói với tôi rằng dù có chính tay họ làm hay không nhưng cha cổ, chồng cổ đã gây biết bao nhiêu tội ác, làm cho cái quê nhỏ nầy trở nên như vậy. Mà, có còn ai để giúp cổ trả món nợ nầy cho bà con, cho làng xóm, để cho cổ được ngẩng đầu lên nhìn cuộc đời mà không thấy mình có tội, ngoài tôi. Tôi thương cổ lắm, tôi quay lại, tự hâm nóng mình. Thời đó tôi sống tràn đầy hoài bão, tràn đầy thương yêu như cháu bây giờ, cháu gái à. Tôi chưa biết ham mê tước vị, quyền lợi. Rồi từ từ tôi mới biết cân nặng nhẹ, biết so đo. Tôi lấy vợ, mà, tội nghiệp tôi lắm, lấy vợ mà cũng so đo. Ông già vợ tôi là cán bộ tổ chức của tỉnh. Tới một ngày chợt nhận ra, quyền lực đối với tôi càng giống như cục mỡ rệu trong veo trong nồi thịt kho tàu ngày Tết, nhìn thì thèm, ăn quá ngán mà bỏ thì tiếc.
 

estrella

Active Member
Ông cười sùng sục. Tiếng cười nghe xao động như quầy dừa rụng xuống hào ranh giữa buổi trưa vắng. Nhưng Hiên giật mình vì ánh mắt không hề có một niềm vui, nó sâu hun hút. Hiên thấy lòng mình lạnh hẳn. Cái nhìn ông lạnh như cái ao sâu phủ kín lục bình.

- Chú à, bây giờ cô ấy ở đâu?

- Cháu có biết xóm Trầu? Một cái xóm đẹp. Căn cứ cũ của chúng tôi. Tôi nhớ hoài, trước mặt xóm là một cái đầm nước gió ơi là gió...

Và một hàng dừa nước bên sông nghiêng mình soi đáy. Những ngày gió chướng về, nước trong vằng vặc như thấy rành rạnh từng sớ lá. Trên bờ kinh, dây choại mọc đầy, đọt choại xanh non nhuốt líu ra líu ríu níu bước chân người. Hàng bông bụp trước sân nhà nở đỏ. Con heo cỏ bụng bự đầy đất sục mũi vào đám rau diệu, rau chay. Sau vườn, dây trầu già leo cây cau ốm. Bầy kiến vàng liêu xiêu bò ra bò vào trên nhánh chanh giấy de ra mé ao. Và ở đó có má Hiên, một đời thầm lặng, hiền lành. Sớm sóm, ngồi xắt chuối quết nát trộn vòi cám cho bầy vịt xiêm ăn. Xẩm tối, má đốt nhang lên bàn thờ ông bà ngoại, đóng cửa, sập rèm. Má Hiên bị bức phải lấy ba Hiên tháng chín, tháng tư năm sau giải phóng miền Nam. Cái khoảnh khắc đó so với cuộc đời ngắn ngủi biết bao nhiêu nhưng đã trì níu cuộc đời má Hiên xuống. Mấy mươi năm, cuộc đời má như hủ sành bể nát, không mảnh nào ráp được với mảnh nào, phải làm hai, làm ba còn lấy keo chắp vá. Niềm vui chỉ những ngày cuối tuần, má Hiên trông từng chuyến tàu trưa, coi Hiên có về không? Một ngừơi quen cũ có về không? Khi ba Hiên đi học cải tạo ba năm, Hiên lớn lên không hề có ba mà không thấy tủi. Ba Hiên về, năm sau xuống tàu vượt biên, Hiên đã là một con bé lạ lùng, Hiên có thể rạch ròi chuyện từng chuyện một. Hiên nghĩ rằng ba ra đi là lỗi của ông, vì ông nghĩ rằng đất này không cưu mang, không liên quan tới chuyện mối tình xa gì gì đó của má. Hồi đó, mối tình đó chỉ là một ngọn lửa le lói cháy trong mắt má Hiên. Lạ sao, đến bây giờ, ngọn lửa vẫn không tắt và chưa bao giờ tắt. Có lẽ, người đời luôn luôn nuối tiếc những gì không tròn vẹn. Hiên vẫn không tin được, chỉ những lời hứa hẹn và một đôi lần nắm tay nhau (Hiên tưởng tượng cùng lắm thì hôn lên má nhau, nếu có thể) lại làm cho người ta nhớ lâu, nhớ sâu đến vậy. Mỗi lần xem ti vi, nhìn thấy ông thoáng qua, trên màn hình, má Hiên luôn cười rất nhẹ, kín đáo âm thầm. Cái cười nhỏ nhưng tràn đầy tình. Hiên có lần bảo, “Con mà thương ai thể nào con cũng lặn lội lại nói với người ta liền”. Má Hiên cười, “Con còn trẻ, má già rồi. Mà, má có xứng gì đâu...”. Hiên chợt nhận ra, thế hệ của mình đã khác, thế hệ mình sống nhẹ nhàng hơn thời của má nhiều.

Không biết bây giờ xóm cũ có còn như trước, cũng ba năm rồi tôi không về...

Ông trầm ngâm. Hiên nói với lòng mình. Không, cái xóm đó không bao giờ thay đổi được. Người ở xóm đó vẫn vậy. Chắc nó không khác được đâu, lúc nào nó cũng soi mình xuống đầm. Thấy mình khác một chút đã sửa lại.

- Lẽ ra bây giờ chú phải về xóm Trầu. Cháu chắc chắn là có người vẫn chờ đợi chú, chờ đợi tới trăm năm.

Ông bồn chồn ngước lên nhìn Hiên.

... Hai hôm sau, khi Hiên quay lại nhìn ông, nhà đã khóa cửa ngoài. Hiên quay về chỗ trọ thì nhận được lá thư nhỏ. Thư của ông. Hiên cứ cầm thư mà xuống nước mắt. Ông viết: “Cuộc đời đã tằn tiện chai sớt lại cái cơ hội cuối cùng của chú, cũng bởi vì chú đã hoài phí nhiều. Chú đã nhận ra cháu rồi, cháu gái à. Chú chuyển lời xin lỗi đến má cháu. Chú bệnh, bệnh nặng. Không còn ham hố, vướng bận gì nữa, chú cũng không thể trở về, bởi vì chú không muốn làm một gánh nặng cho má con cháu lúc cuối đời... Chú thương cháu nhiều, con gái nhỏ...”.

Chỉ vậy mà họ có thể bứt khỏi nhau ra được sao, tròi đất quỷ thần ơi, những người lớn... Đường đời gang tấc mà vì nỗi gì mà đi vòng cho xa hoài, xa mãi. Hiên lặng người, tới bây giờ Hiên cũng không biết ông bệnh gì, nghiêm trọng ra làm sao? Hiên không biết. Má ơi!
 

Tra cứu điểm thi

Phần mềm mới

Quảng cáo

11223344550983550000
Top