Quốc ca Việt Nam ra đời như thế nào...

Pham Vu Ngoc Ha

Active Member
Nhạc sĩ VĂN CAO - Tại sao tôi viết "Tiến Quân Ca"?

... Sau triển lãm duy nhất 1944 (Salion unique), tôi về một gác hẹp đầu phố Nguyễn Thượng Hiền. Ba bức tranh sơn dầu của tôi, tuy được trưng bày vào chỗ tốt nhất của phòng tranh nhà Khai Trí Tiến Đức - và được các báo khen ngợi nhưng cũng không bán nổi. Hy vọng về cuộc sống hội hoạ, tại Hà Nội không thể thực hiện được. Anh bạn nhường cho tôi căn gác ấy. Là người xuất bản mấy bản nhạc của tôi, cũng không thấy nói trả tiền nhuận bút. Tôi chưa bao giờ nhận được tiền nhuận bút về các bản nhạc viết hồi đó, dù đã trình bày nhiều lần ở các tỉnh từ Bắc tới Nam, tôi cũng không nhận được tiền nhuận bút về thơ và truyện ngắn. Đối với cây bút trẻ, việc đăng báo là một vinh dự. Người ta phải đi mua báo còn mua thêm nhiều tờ để tặng người yêu, tặng bạn thân. Hàng ngày tôi nhờ mấy người bạn họa sĩ nuôi cơm và giúp đỡ cho phương tiện làm việc làm việc. Cuộc sống lang thang đó không thể kéo dài mhiều ngày. Muốn tìm việc làm thì không có chỗ. Hà Nội lúc ấy đang đói.

Tin từ Hải Phòng lên, cho biết mẹ tôi, các em và các cháu tôi đang bị đói khổ. Bà đưa các cháu nhỏ ấy từ Nam Định ra Hải Phòng, dọc đường đã để lạc mất đứa cháu gái nhỏ con anh cả tôi. Nó mới lên ba. Đôi mắt nó giống như mắt mèo con. Có thể nó nằm ở dọc đường trong đám người chết đói năm ấy. Các anh tôi cũng đang chờ tìm cách giúp đỡ. Năm ấy rét hơn một năm. Tôi ngủ với cả quần áo. Có đêm tôi phải đốt dần bản thảo và ký hoạ để sưởi. Đêm năm ấy cũng dài hơn một năm. Những ngày đói của tôi bắt đầu.

Tôi đã gặp lại đồng chí Vũ Quý. Anh ấy vẫn theo dõi những hoạt động nghệ thuật của tôi từ mấy năm qua, và thường khuyến khích tôi sáng tác những bài hát yêu nước như Đống Đa, Thăng Long hành khúc, Tiếng rừng và một số ca khúc khác. Chúng tôi gặp nhau trước ga Hàng cỏ. Chúng tôi vào môt hiệu ăn. ở đây quyết định một cuộc đời mới của tôi. Câu chuyện giữa chúng tôi hết sức đơn giản .

- Văn có thể thoát ly hoạt động được chưa?
- Được.
- Ngày mai Văn bắt đầu nhận công tác, và nhận phụ cấp hàng tháng.

Ngày hôm sau, anh đưa tôi lại nhà đồng chí thợ giày ở đầu ngõ chợ Khâm Thiên, để ăn cơm tháng và quyết định về công tác. Đây là lần đầu tiên chấm dứt cuộc sống lang thang của tôi.

Vũ Quý đễn tìm tôi và giao công tác:

- Hiện nay trên chiến khu thiếu bài hát, phải dùng những điệu hướng đạo. Khóa quân chính kháng Nhật sắp mở, anh hãy soạn một bài hát cho quân đội cách mạng chúng ta.

Phải làm như thế nào đây? Chiều hôm ấy tôi đi dọc theo đường phố ga, đường hàng Bông, đường Bờ Hồ, theo thói quen, tôi cố tìm một cái gì đó để nói. Tìm một âm thanh đầu tiên. Những đường phố quen thuộc ấy thường không vang một âm thanh gì hơn những tiếng nghe buồn bã hàng ngày. Hôm nay phố đông người hơn, và lòng tôi thấy vui hơn. Tôi đang chờ nhận một khẩu súng và được tham gia vào đội vũ trang. Tôi đang chuẩn bị một hành động gì có thể là mạo hiểm hy sinh, chứ không chuẩn bị để quay lại làm bài hát. Thật khó nghĩ tới nghệ thuật lúc này. Tôi đi tới mãi lúc đèn các phố bật sáng. Bên một gốc cây bóng mấy người đói khổ trần truồng, loang trên hồ lạnh. Họ đang đun một thứ gì, trong một ống sữa bò. Ngọn lửa tím sẫm bập bùng trong những hốc mắt. Có môt đứa bé gái. Nó khoảng lên ba. Tôi ngờ ngợ như gặp lại cháu tôi. Đôi mắt nó giống như mắt mèo con. Cháu bé không có mảnh vải che thân. Nó ngồi ở xa nhìn thấy người lớn sưởi lửa. Hình như nó không phải là con cái số người đó. Hình như nó là đứa trẻ bị lạc cũng không phải là cháu tôi. Nó đã chết thật rồi. Có thể nó đã nằm trong đám người chết đói dọc đường Nam Định-Hải Phòng. Tôi bỗng trào nước mắt, và quay đi. Đêm ấy về căn gác, tôi đã viết được nét nhạc đầu tiên của bài Tiến quân ca.

Bài hát đã làm trong thời gian không biết bao nhiêu ngày, tại căn gác xép hẹp số 45 Nguyễn Thượng Hiền, bên một cái cửa sổ nhìn sang căn nhà 2 tầng, mấy làn cây và một màn trời xám. ở đây thường vọng lên những tiếng xe bò chở xác người chết đói về phía Khâm Thiên. ở đây hàng đêm, mất ngủ vì gió mùa luồn vào từng khe cửa, vì tiếng đánh chửi nhau của một gia đình anh em viên chức nghèo khổ, thiếu ăn, vọng qua những khe sàn gác hở. ở đây đêm đêm có những tiếng gõ cửa, những tiếng gọi đêm không người đáp lại.

Tin từ Nam Định lên, cho biết mẹ tôi và các em đã về quê. Họ đang phải tìm mọi cách để sống qua ngày, như mọi người đang chờ đợi một cái chết thật chậm, tự ăn mình như ngọn nến. Tiếng kêu cứu của mẹ tôi, các em, các cháu tôi vọng cả căn gác, cả giấc ngủ chiều hôm. Tất cả đang chờ đợi tôi tìm cách giúp đỡ. Tôi chưa được cầm một khẩu súng, chưa được gia nhập đội vũ trang nào. Tôi chỉ đang làm một bài hát. Tôi chưa biết chiến khu, chỉ biết những con đường phố Ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ theo thói quen tôi đi. Tôi chưa gặp các chiến sĩ cách mạng của chúng ta, trong khóa quân chính đầu tiên ấy, và biết họ hát như thế nào. ở đây đang nghĩ cách viết một bài hát thật giản dị, cho họ có thể hát được.

Đoàn quân Việt Nam đi
Chung lòng cứu quốc
Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa...


Và ngọn cờ đỏ sao vàng bay gĩữa màu xanh của núi rừng. Nhịp điệu ngân dài của bài hát, mở đầu cho một tiếng cồng vang vọng.

Đoàn quân Việt Nam đi
Sao vàng phấp phới
Dắt giống nòi quê hương qua nơi lầm than...


Không, không phải chỉ có những học sinh kháng Nhật đang hành quân, không phải chỉ có những chiến sĩ áo chàm đang dồn bước. Mà cả đất nước đang chuyển mình.

Tên bài hát và lời ca của nó là một sự tiếp tục từ Thăng Long hành khúc ca:

"Cùng tiến bước về phương Thăng Long thành cao đứng"

-Hay trong Ðống Ða:

"Tiến quân hành khúc ca
Thét vang lừng núi xa..."


Lời trên đã rút ngắn thành tên bài Tiến quân ca, và tiếng thét ấy ở đoạn cao trào của bài hát.

Tiến lên! Cùng thét lên !
Trí trai là đây nơi ước nguyền!


Trên mặt bàn chỗ tôi làm việc, tờ Cờ giải phóng đăng những tin tức đầu tiên về những trận chiến thắng ở Võ Nhai.

Trước mắt tôi mảnh trời xám và lùm cây ở Hà Nội không còn nữa. Tôi đang sống ở một khu rừng nào đó trên kia, trên Việt Bắc. Có nhiều may và nhiều hy vọng.

Và bài hát đã xong. Tôi nhớ lại nụ cười thật hài lòng của đồng chí Vũ Quý. Da mặt anh đen xạm. Đôi mắt và nụ cười của anh lấp lánh. Tôi nhớ lại nụ cười hồn nhiên của đồng chí Nguyễn Đình Thi, khi xuớng âm lần đầu tiên nhạc điệu bài hát áy, Thi nói với tôi:

-Văn , chúng mình thử mỗi người làm một bài về mặt trận Việt Minh xem sao?

Tôi không kịp trả lời, chỉ nhìn tháy đôi mắt của Thi thật lạc quan và tin tưởng. Sau này Thi làm xong bài "Diệt phát xít" truớc tôi. Bài "Chiến sĩ Việt Nam" của tôi và bài "Diệt phát xít" của Nguyễn Đình Thi ngày ấy không có dịp trên tờ báo do chúng tôi phụ trách.

Tháng 11/1944, tôi tự tay viết bài Tiến quân ca lên đá, trong trang văn nghệ đầu tiên của tờ báo Độc Lập, còn giữ lại nét chữ viết của một anh thợ mới vào nghề.

Một tháng sau khi báo phát hành, tôi từ cơ quan ấn loát trở về Hà Nội. Qua một đường phố nhỏ (bây giờ là đường Mai Hắc Đế) tôi chợt nghe tiếng đàn măng-đô-lin, từ một căn gác vọng xuống. Có người đang tập Tiến quân ca. Tôi dừng lại và tự nhiên thấy xúc động. Một xúc động đến với tôi hơn tất cả những tác phẩm, tôi đã được ra mắt ở các rạp trước đây. Tôi nhận ra được vài chỗ nhịp điệu còn chưa hoàn chỉnh. Nhưng bài hát đã in ra rồi. Bài hát đã được phổ biến. Có thể những người cùng khổ, mà tôi đã gặp trên bước đường cùng khổ của tôi, lúc náy đang cầm súng và đang hát.

Tới lúc cần hành động, tôi lại bị ốm nặng, và phải đưa những vũ khí mà tôi giữ cho một đồng chí khác. Ngày 17/8/1945, tôi cố gắng đến dự cuộc mít tinh của công chức Hà Nội. Ngọn cờ đỏ sao vàng được thả từ bao lơn Nhà hát lớn xuống. Bài Tiến quân ca đã nổ ra như một trái bom. Nước mắt tôi trào ra. Chung quanh tôi hàng ngàn giọng hát cất lên, vang lên những đoạn sôi nổi. Những cánh tay áo mọi người, những băng cờ đỏ sao vàng, đã thay cho những băng vàng bẩn thỉu của chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim.

Ngày 18/9/1945, một cuộc mít tinh lớn, họp tại quảng trường nhà hát lớn. Dàn đồng ca của thiếu niên tiền phong hát "Tiến quân ca", chào lá cờ đỏ sao vàng. Các bạn nhỏ này, ngày nay đã lớn tuổi rồi, còn nhớ lại cái buổi sáng tháng Tám, nắng vàng rực rỡ ấy, nhớ lại giọng hát của họ lẫn với giọng tôi, vô cùng xúc động chào lá cờ cách mạng. Hàng chục ngàn giọng hát cất lên, thét lên căm thù bọn đế quốc, với sự hào hứng chiến thắng của Cách mạng.

Bài Tiến quân ca đã là của dân tộc Việt Nam độc lập kể từ ngày đó.

Theo Văn Cao - Cuộc đời và tác phẩm
 

Pham Vu Ngoc Ha

Active Member
Bản chép nhạc bài "Tiến quân ca" cuối cùng của nhạc sĩ Văn Cao

Bản chép nhạc bài hát Tiến quân ca hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam (ảnh dưới) chính là bản cuối cùng do chính nhạc sĩ Văn Cao chép tặng vào năm 1994, sau nửa thế kỷ kể từ khi bài hát trở thành Quốc ca.

.....

Trước khi giao bản nhạc cho chúng tôi, ông đi đến chiếc Piano để ở góc nhà, và rót một chén rượu nhấm nháp. Ông ngồi vào ghế đánh cho chúng tôi nghe bài hát Tiến quân ca một cách say sưa như vừa mới sáng tác.

Ông còn tặng Bảo tàng bài viết của ông về cảm xúc khi nghe hát bài Tiến quân ca lần đầu. Trong đó có đoạn viết: "Tháng 11-1944, tôi tự tay viết bài "Tiến quân ca" lên đá in trang văn nghệ đầu tiên của tờ báo Độc lập còn giữ lại nét chữ viết của anh thợ mới vào nghề.

Một tháng sau khi báo phát hành, tôi từ cơ quan ấn loát trở về. Qua một đường phố nhỏ (bây giờ là đường Mai Hắc Đế) tôi chợt nghe thấy tiếng đàn Măng-đô-lin từ một căn gác vọng xuống. Có người đang tập hát "Tiến quân ca". Tôi dừng lại và tự nhiên thấy xúc động. Một xúc động đến với tôi hơn tất cả những tác phẩm của tôi đã được trình diễn ở các rạp hát trước đây. Tôi nhận ra được vài chỗ nhịp điệu còn chưa được hoàn chỉnh. Nhưng bài hát đã in ra rồi. Bài hát đã được phổ biến và không còn là của riêng tôi
".

(Trích từ báo Tiền Phong)
 

Who_Cares

Member
Chào cở có ai hát quốc ca đâu mà thầy giám thị(hay ai nữa không biết) cứ khen là: các em hôm nay hát rất to, rất đều....Nào cùng vỗ tay....bốp...bốp
(Mèo khen mèo dài đuôi)
 

Tra cứu điểm thi

Phần mềm mới

Quảng cáo

11223344550983550000
Top