to hoang hiep
Member
<img src='http://www.minhhai.mattroido.org/exalbum/data/media/1/shawtyxnikki_pic1.jpg' border='0' alt='user posted image' />
muợn tạm cái hình của bà này để tăng thêm phần hấp dẫn cho 1 môn nội công tà giáo đã bị cấm ở Trung Hoa
Pháp luân công là một công phu nổi tiếng của Trung quốc. Năm 1992 Thầy Lý hồng chí đã chỉnh đổi từ nguyên dạng ban đầu để có thể phù hợp với đông đảo quần chúng. Pháp luân công đã phát triển mạnh mẽ ở Trung quốc sau đó nhanh chóng tạo nên một ảnh hưởng rất lớn. Tính đến năm 2002 Pháp luân công đã được hình thành & phát triển ở hơn 50 quốc gia trên thế giới với số người theo học là trên 100 triệu người. Nhưng sau đó Sư phụ ( Thày Lý hông chí - theo cách gọi của toàn thể đệ tử Pháp luân công trên thế giới ) đã có những hành động dính dáng đến chính trị . Pháp luân giáo hội đã bị giải thể ở Trung quốc & bị cấm tập luyện tại nước này. Tuy nhiên đó là vấn đề riêng chúng ta không cần quan tâm mà chỉ cần biết một điều . Tác dụng & sự phát triển của Pháp luân công là một sự thực mà không ai phủ nhận được. Hôm nay tại hạ xin bắt đầu giới thiệu về công pháp này một cách cặn kẽ về nguyên lý & phương cách tập luyện ( có kèm theo hướng dẫn chi tiết bằng hình ảnh & video).
Do tầm hiểu biết hạn hẹp cho nên có gì sai sót mong mọi người chỉ giáo cho. Tại hạ chân thành cảm ơn
Chú ý : Tất cả những tài liệu ở đây đều được cung cấp bởi liên hội Pháp luân đại pháp .
Đơnphong
Bắt đầu về Pháp luân đại pháp :
Giới thiệu sơ lược
Pháp Luân Đại Pháp (còn gọi là Pháp Luân Công, hoặc Pháp Luân Tu Luyện Đại Pháp) là một đại pháp môn tu luyện Phật gia có nguồn gốc lịch sử xa xưa, do Sư phụ Lý Hồng Chí biên soạn và giới thiệu. Từ tháng 5-1992 được bắt đầu truyền ra công chúng tại Trung Quốc cho đến nay, năm 2002, đã có hơn 100 triệu người tham gia trên hơn 50 quốc gia khác nhau. Trong đó có nhiều thành phần khác nhau như công chức, lãnh đạo, doanh nhân, văn sỹ, học giả; có nhiều lứa tuổi khác nhau, như trẻ em, thanh niên, phụ nữ, người già; có nhiều trình độ tri thức khác nhau, như giáo sư, tiến sĩ, cán bộ lãnh đạo, công nhân, nông dân.
Có người tự hỏi, vì sao Pháp Luân Đại Pháp truyền bá nhanh và rộng, thu hút được nhiều người đến học và vượt qua được mọi ranh giới về quốc gia, dân tộc, kinh tế, tôn giáo đến như vậy. Kỳ thực, nguyên nhân rất đơn giản, đó là vì Pháp Luân Đại Pháp là tu luyện chính Pháp, đem lại lợi ích vô cùng to lớn cho người học.
Chúng tôi soạn những trang web này với mong muốn để tạo điều kiện mọi người hiểu được Pháp Luân Đại Pháp, để những người có duyên với Đạo có thể tham gia tu luyện Pháp Luân Đại Pháp.
I. Đặc điểm Pháp Luân Đại Pháp
1. Pháp Luân Đại Pháp là pháp môn tu luyện Phật gia, không phải Phật giáo, cũng không mang hình thức tôn giáo. Công pháp Phật gia cũng không phải Phật giáo. Pháp Luân Đại Pháp đặt căn bản ở việc tu luyện đồng hoá với đặc tính tối cao của vũ trụ là Chân Thiện Nhẫn, lấy đặc tính tối cao của vũ trụ làm đạo lý chỉ đạo, chiểu theo đạo lý diễn hoá của vũ trụ để tu luyện, ấy là tu theo Đại Đạo.
2. Pháp Luân Đại Pháp đặt trọng tâm vào tu luyện tâm tính. Tu luyện tâm tính là điều then chốt để tăng công. Tâm tính cao bao nhiêu, công cao bấy nhiêu. Tâm tính gồm có đức (đức là một loại vật chất màu trắng) và chuyển hoá của nghiệp (nghiệp là một loại vật chất màu đen); gồm có nhẫn; gồm có ngộ; gồm có xả; xả bỏ các loại dục vọng, các thứ tâm chấp trước của người thường; cũng cần chịu đựng những gian khổ; và cũng bao gồm phương diện khác nhau trong tu luyện. Toàn bộ quá trình tu luyện của người ta không gì khác hơn là quá trình không ngừng dứt bỏ những tâm chấp trước của con người.
3. Pháp Luân Đại Pháp là phương pháp tu luyện tính mệnh song tu hoàn chỉnh. Ngoài tu tâm, còn có bộ phận tu mệnh, tức là luyện động tác (có năm bài tập tất cả). Vừa tu vừa luyện, tu thứ nhất, luyện thứ nhì. Động tác là phương thức bổ trợ để tu luyện viên mãn. Chỉ luyện động tác không tu tâm tính, thì không thể tăng công; chỉ tu tâm tính không luyện đông tác, thì công lực bị ngăn trở, thân thể cũng không chuyển hoá được. Trong quá khứ nhiều người trường kỳ luyện công mà không tăng công, đến khi tu luyện Pháp Luân Đại Pháp mới nhận rõ rằng công lực ấy là do tu mà có chứ không phải do luyện mà có. Tâm tính cao bao nhiêu, công cao bấy nhiêu. Trong quá khứ, luyện công không tăng công có hai nguyên nhân căn bản:
Một, không biết Pháp ở cao tầng, thì không thể tu lên cao;
Hai, không biết hướng nội tu, không coi trọng tu luyện tâm tính.
4. Tu luyện Pháp Luân Đại Pháp lấy Pháp Luân làm trung tâm. Pháp Luân là thể vật chất cao năng lượng tự xoay chuyển và có linh tính; hàng ngày hàng giờ xoay chuyển không ngừng, tự động trợ giúp người tu luyện luyện công. Nói một cách khác, dẫu rằng người tu luyện không phải lúc nào cũng luyện công, nhưng Pháp Luân liên tục không ngừng luyện người ấy. Đây là pháp môn tu luyện duy nhất được công bố trên thế giới có đặc điểm là pháp môn tu luyện “Pháp luyện người”.
5. Pháp Luân Đại Pháp chủ yếu có tám đặc điểm như sau:
Tu luyện Pháp Luân, không luyện đan, không kết đan;
Khi học viên không luyện công, thì Pháp Luân luyện người ấy;
Tu luyện chủ ý thức, bản thân mình đắc công;
Vừa tu tính, vừa luyện mệnh;
Năm bài công pháp, đơn giản đễ học;
Không mang ý niệm, không sai chạy, tăng công nhanh;
Luyện công không đòi hỏi địa điểm, thời gian, phương vị, cũng không giảng thu công;
Có Pháp thân của Sư phụ bảo hộ; không sợ ngoại tà xâm nhiễu,
6. Cuốn Chuyển Pháp Luân là Đại Pháp chỉ đạo tu luyện. Pháp Luân Đại Pháp minh huệ viên dung, động tác dễ tập, Đại Đạo vô cùng giản dị, trên lý luận hoàn toàn không giống như các phương pháp truyền thống, không giống các gia phái truyền dạy luyện đan. Công lý và công pháp của Pháp Luân Đại Pháp đã được trình bày trọn vẹn trong cuốn Chuyển Pháp Luân của Sư phụ Lý Hồng Chí, người học tự lĩnh hội. Liên tục đọc hết lượt này đến lượt khác cuốn Chuyển Pháp Luân là hình thức và nội dung tu luyện chủ yếu của Pháp Luân Đại Pháp, là khoá học hàng ngày cần phải làm.
7. Hình thức tu luyện của Pháp Luân Đại chủ yếu là học Pháp (tức là đọc cuốn Chuyển Pháp Luân) và luyện công tập thể; các học viên trao đổi kinh nghiệm tâm đắc thể hội với nhau.
II. Hiệu quả xã hội của Pháp Luân Đại Pháp
Hiệu quả xã hội của Pháp Luân Đại Pháp thể hiện chủ yếu ở ba phương diện như sau:
1. Đạo đức thăng hoa, mọi nơi làm người tốt
Tu luyện Pháp Luân Đại Pháp nhắm thẳng vào lòng người, trực chỉ nhân tâm, yêu cầu học viên trước hết phải làm người tốt nơi xã hội người thường, trở thành người lương thiện, lúc nào cũng từ bi, vô oán vô hận, lấy khổ làm vui, tiếp đến nâng lên đến mức là làm gì cũng phải nghĩ đến người khác, tu thành cảnh giới vô tư vô ngã, người trước mình sau. Tu luyện tâm tính đặt lên thứ nhất; tâm tính cao bao nhiêu, công cao bấy nhiêu, đây là chân lý tuyệt đối. Do vậy, học viên Pháp Luân Đại Pháp tự giác chiểu theo công pháp mà yêu cầu bản thân, đồng hoá với đặc tính Chân Thiện Nhẫn tối cao của vũ trụ, nghiêm khắc với mình, khoan dung với người; có trách nhiệm với bản thân, có trách nhiệm với xã hội. Tại đơn vị công tác, học viên cần phải trân trọng nghề nghiệp và cương vị của mình, phục tùng lãnh đạo, việc gì được phân cũng không nề hà, vô tư cống hiến. Tại xã hội, họ tuân thủ luật pháp, đề cao đạo đức, không làm điều xấu, nhất tâm hướng thiện. Tại gia đình, họ kính trên nhường dưới, tôn trọng thương mến, hành xử hoà ái, hữu hảo láng giềng. Học viên phải coi nhẹ danh lợi, không tranh không đấu; khi gặp mâu thuẫn thì trước hết phải hướng nội mà tìm chỗ thiếu sót của mình, không đùn đẩy, không so đo, không oán không hận. Tại lời nói hành động nơi người thường, học viên phải chú ý không ngừng khắc phục tâm ganh tỵ tật đố, tâm phô trương hiển thị, tâm tranh đấu, tâm hoan hỷ thái quá cùng các loại tâm không tốt khác; ở đâu đều làm người tốt.
2. Nâng cao tâm tính, hết bệnh khoẻ người
Trong số các học viên Pháp Luân Đại Pháp có nhiều người trước đây vốn có bệnh, có người thậm chí đến học Pháp Luân Đại Pháp là để chữa bệnh. Đến khi họ hiểu được pháp lý của Pháp Luân Đại Pháp, vứt bỏ tâm hữu cầu và chú trọng vào tu luyện tâm tính, thì tuỳ theo tâm tính nâng cao mà công cũng tăng lên, tầng cũng được nâng lên và thân thể cũng được tịnh hoá, trong vô niệm mà đạt đến trạng thái vô bệnh. Pháp Luân Đại Pháp là tu luyện, không phải trị bệnh. Nhưng chỉ cần chân tu thì hiện quả chữa bệnh khoẻ người lại vô cùng rõ ràng.
Theo điều tra 12731 học viên của một trạm phụ đạo lớn ở Bắc Kinh, thì trong 12731 học viên ấy có 93,4% (11892 người) trước khi tu luyện đã từng có bệnh; có một loại, hai loại cho đến ba loại bệnh. Sau khi luyện công thì tổng số những người chuyển biến tốt lên (bao gồm 3 loại: có chuyển biến, chuyển biến tốt, và khỏi hẳn) chiếm tỷ lệ 99,1%. Trong đó 58,5% (6962 người) khỏi hoàn toàn. Trung bình mỗi người mỗi năm tiết kiệm được 3275 nhân dân tệ tiền y-tế, tổng số mỗi năm tiết kiệm 4170 vạn nhân dân tệ. Theo điều tra ở một trạm phụ đạo khác ở Bắc Kinh, thì trong 584 học viên được điều tra có 96,5% số người đã khỏi bệnh hoặc chuyển biến rõ rệt, 87,6% số người không còn dùng thuốc nữa. Chi phí thuốc men trung bình cho mỗi người giảm từ 3700 nhân dân tệ một năm xuống 70 nhân dân tệ một năm. Hai báo cáo trên đây chỉ ra rằng Pháp Luân Đại Pháp không chỉ đem lại lợi ích chữa bệnh khoẻ người phổ biến cho học viên, mà còn đem lại lợi ích to lớn cho quốc gia, tiết kiệm chi phí y-tế. Nhiều học viên cao hứng nói: “Bản thân thôi chịu khổ; vợ con khỏi mang phiền; thuốc men nay dứt bỏ; xã hội lợi hiển nhiên”.
3. Có trách nhiệm với xã hội, làm người có ích lợi cho xã hội
Học viên Pháp Luân Đại Pháp mang Chân Thiện Nhẫn trong tâm, khi hành xử với mọi người trong các sự việc khác nhau đều có yêu cầu tâm tính cho bản thân. Việc gì có ích cho xã hội, họ xung phong làm; làm việc tốt xong, cũng không lưu danh tính. Những việc không lợi cho xã hội, phương hại đến người khác, họ nhất định không làm. Đó là cảnh giới tư tưởng của những học viên Pháp Luân Đại Pháp.
Trong những quyên góp cứu tế mấy năm qua, có nhiều học viên đã quyên đến hàng vạn nhân dân tệ, nhưng chỉ lưu danh ở báo chí, truyền thanh, hay truyền hình dưới một cái tên là “học viên Pháp Luân Công”.
Những sự thực về ba phương diện trên đây, đã bày tỏ rõ ràng tác dụng tích cực của Pháp Luân Đại Pháp đối với xã hội:
Có ích nâng cao đạo đức cho mọi người, cống hiến cho văn minh tinh thần của xã hội;
Có ích nâng cao sức khoẻ cho mọi người, cống hiến cho sức khoẻ nhân dân;
Có ích nâng cao trách nhiệm cá nhân đối với xã hội, cống hiến cho sự ổn định tiến bộ của xã hội.
Tóm lại, ai tu luyện Pháp Luân Đại Pháp cũng có tác dụng tốt đối với văn minh xã hội cả về thể chất lẫn tinh thần.
III. Truyền bá và phát triển của Pháp Luân Đại Pháp
1. Truyền bá và phát triển của Pháp Luân Đại Pháp
Sư phụ Lý Hồng Chí, người sáng lập Pháp Luân Đại Pháp, đã truyền công giảng Pháp tại Trung Quốc trong giai đoạn từ tháng Năm 1992 đến cuối năm 1994, tổng cộng tất cả 53 lớp học đại trà. Trong đó có 13 lớp mở tại Bắc Kinh, chiếm gần 1/4 tổng số, như vậy đây là thành phố đứng đầu về số lớp học mà Sư phụ trực tiếp truyền công giảng Pháp. Ước tính số học viên tại Bắc Kinh tham dự trên một vạn lượt người.
Để ủng hộ hoạt động khí công toàn quốc, Sư phụ Lý Hồng Chí đã dẫn một số đồ đệ cùng đến tham dự hai lần Hội Sức khoẻ Đông phương năm 1992 và năm 1993. Cả hai lần hội ấy, Pháp Luân Đại Pháp đều là công pháp nổi trội nhất. Tại Hội Sức khoẻ năm 1992, Pháp Luân Công đã vinh dự được chọn là “minh tinh công phái”, và cũng là công phái được biểu dương nhiều nhất. Tại Hội Sức khoẻ lần thứ hai vào năm 1993, Sư phụ Lý Hồng Chí đã được các uỷ viên của Hội mời đến phát biểu ba ngày về khí công học thuật. Bài phát biểu lần nào cũng kéo dài quá thời gian. Ngoài ra Sư phụ cũng nhận “giải thưởng đặc biệt”, được tặng danh hiệu “khí công sư được hoan nghênh nhất”, và giải duy nhất tối cao là “giải khoa học tiến bộ”.
Sau sự kiện có ảnh hưởng lớn tại Bắc Kinh ấy, số người học Pháp Luân Đại Pháp cấp tốc tăng mau.
2. Pháp Luân Đại Pháp không thực hành quản chế
Pháp Luân Đại Pháp chỉ coi trọng thực tu, không coi trọng hình thức; không thực hành quản chế. Không có cơ cấu quản lý, không thiết lập phòng ban, không có nhân viên công tác chuyên trách, cũng không có những thứ như chương trình tổ chức hay đăng ký học viên. Ai muốn học Pháp Luân Đại Pháp thì đọc cuốn Chuyển Pháp Luân, muốn luyện động tác thì đến các điểm luyện công, các phụ trách viên và học viên lâu năm có nghĩa vụ hướng dẫn tập. Tu luyện là tự nguyện.
Tại sao Pháp Luân Đại Pháp không coi trọng hình thức, không quản chế? Ấy là vì công pháp và công lý quyết định. Pháp Luân Đại Pháp lấy “Chân Thiện Nhẫn” làm gốc, trực chỉ nhân tâm nhắm thẳng vào lòng người; nhấn mạnh rằng tu luyện phải tu tâm tính, đồng hoá với đặc tính tối cao của vũ trụ là “Chân Thiện Nhẫn”. Không tu tâm chỉ luyện công thì không phải tu luyện chân chính. Tu luyện là việc của bản thân mình, không ai có thể quản chế, cũng không ai có thể làm thay. Nếu người kia không muốn tu luyện chân chính, thì có quản chế bên ngoài thế nào cũng không tác dụng. Trái lại, người tu luyện chân chính, trong tâm ôm giữ “Chân Thiện Nhẫn”, “lấy Pháp làm thầy”; họ có thể phân biệt thiện ác, tốt xấu; lúc nào cũng có tâm Pháp tự quản chế lấy bản thân mình, không cần người khác quản.
3. Học viên Pháp Luân Đại Pháp có yêu cầu nghiêm khắc về tâm tính và hành vi
Sư phụ Lý Hồng Chí có yêu cầu và quy định nghiêm khắc đối với trạm phụ đạo và học viên Pháp Luân Đại Pháp. Ví dụ: trạm phụ đạo là một tổ chức tu luyện có tính quần chúng chuyên nhất trong việc hướng dẫn tu luyện, nhất định không được dùng phương pháp quản lý có cơ cấu hành chính và thành phần làm kinh tế, không được phép giữ tiền hay của cải, không được phép có hoạt động chữa bệnh, không được quản chế; không ai được phép mượn danh nghĩa tu luyện Pháp Luân Đại Pháp để tuyên truyền bất kỳ tôn giáo nào khác; phải nghiêm khắc tuân thủ luật pháp quốc gia; hành vi vi phạm chính sách pháp luật nhà nước của bất kỳ ai cũng đều không được chấp nhận trong Pháp Luân Đại Pháp; phải lấy tu luyện tâm tính làm gốc, tuyệt đối không can thiệp vào chính trị quốc gia, lại càng không được tham gia vào bất kể hoạt động đấu tranh chính trị nào; ai vi phạm đều không được tính là đệ tử Pháp Luân Đại Pháp, mọi hậu quả đều do bản thân cá nhân đương sự chịu trách nhiệm; phải tích cực duy trì đoàn kết trong giới tu luyện, cộng đồng đều nỗ lực vì phát triển văn hoá truyền thống nhân loại; những vật dụng cần thiết cho học viên như kinh sách, tài liệu, băng hình băng tiếng, v.v của Pháp Luân Đại Pháp đều phải thông qua các kênh phân phối và xuất bản thông thường ngoài xã hội, trạm phụ đạo không được kinh doanh; trạm phụ đạo và phụ đạo viên không được mượn bất kể danh nghĩa nào để thu thập tiền bạc của cải dưới bất kể hình thức nào như quyên góp, tài trợ, tặng vật, v.v.
Đối với những quy định ấy, trạm phụ đạo và tất cả các học viên đều phải tự giác tuân thủ một cách nghiêm túc, từ đó bảo đảm được tính đúng đắn trước sau cũng như sự truyền bá và phát triển lành mạnh của Pháp Luân Đại Pháp. Đồng thời những quy định này cũng minh chứng được rằng Pháp Luân Đại Pháp có trách nhiệm rất cao đối với chính phủ, với xã hội và với học viên.
IV. Pháp Luân Đại Pháp trên thế giới
Hiện nay những người theo học Pháp Luân Đại Pháp đã có trên 50 quốc gia khác nhau, các chủng tộc, các ngôn ngữ khác nhau. Nhiều nơi trên các nước đã có đăng ký thành lập tổ chức “Pháp Luân Phật Học Hội”.
Ngày 3 tháng Tám, 1994, thị trưởng Houston, Texas đã trân trọng trao tặng danh hiệu “công dân danh dự” và “sứ giả thiện lành”. Đến 12 tháng Mười, 1996, thị trưởng Houston, Texas lại tuyên bố ngày hôm ấy là “ngày của ông Lý Hồng Chí”. Trong bản công bố ấy có đoạn viết “Pháp Luân Đại Pháp đã vượt trên biên giới về văn hoá cũng như chủng tộc. Nó đưa chân lý vũ trụ đến mọi miền thế giới cũng như bắc một chiếc cầu nối liền Đông phương với Tây phương. Ông Lý Hồng Chí đã truyền bá không biết mệt mỏi Pháp Luân Đại Pháp từ Trung Quốc đến khắp những nơi khác trên hoàn cầu, qua đó Ông đã cảm động đến muôn vàn người dân thế giới và gây dựng uy tín quốc tế của mình”. Ngoài ra thành phố Houston cũng mời Sư phụ Lý Hồng Chí đến thăm Trung tâm Vũ trụ Quốc gia, và tổ chức toạ đàm khoa học tại đó.
Pháp Luân Đại Pháp đã được sự hưởng ứng trên toàn thế giới. Từ đó đến nay Pháp Luân Đại Pháp đã nhận hàng trăm giải thưởng, khen tặng của các thành phố quốc gia khác nhau.
Hiện nay cuốn sách cơ bản của môn phái, cuốn Chuyển Pháp Luân, đã được chuyển dịch sang hơn 10 thứ tiếng, trong đó có cả tiếng Việt.
muợn tạm cái hình của bà này để tăng thêm phần hấp dẫn cho 1 môn nội công tà giáo đã bị cấm ở Trung Hoa
Pháp luân công là một công phu nổi tiếng của Trung quốc. Năm 1992 Thầy Lý hồng chí đã chỉnh đổi từ nguyên dạng ban đầu để có thể phù hợp với đông đảo quần chúng. Pháp luân công đã phát triển mạnh mẽ ở Trung quốc sau đó nhanh chóng tạo nên một ảnh hưởng rất lớn. Tính đến năm 2002 Pháp luân công đã được hình thành & phát triển ở hơn 50 quốc gia trên thế giới với số người theo học là trên 100 triệu người. Nhưng sau đó Sư phụ ( Thày Lý hông chí - theo cách gọi của toàn thể đệ tử Pháp luân công trên thế giới ) đã có những hành động dính dáng đến chính trị . Pháp luân giáo hội đã bị giải thể ở Trung quốc & bị cấm tập luyện tại nước này. Tuy nhiên đó là vấn đề riêng chúng ta không cần quan tâm mà chỉ cần biết một điều . Tác dụng & sự phát triển của Pháp luân công là một sự thực mà không ai phủ nhận được. Hôm nay tại hạ xin bắt đầu giới thiệu về công pháp này một cách cặn kẽ về nguyên lý & phương cách tập luyện ( có kèm theo hướng dẫn chi tiết bằng hình ảnh & video).
Do tầm hiểu biết hạn hẹp cho nên có gì sai sót mong mọi người chỉ giáo cho. Tại hạ chân thành cảm ơn
Chú ý : Tất cả những tài liệu ở đây đều được cung cấp bởi liên hội Pháp luân đại pháp .
Đơnphong
Bắt đầu về Pháp luân đại pháp :
Giới thiệu sơ lược
Pháp Luân Đại Pháp (còn gọi là Pháp Luân Công, hoặc Pháp Luân Tu Luyện Đại Pháp) là một đại pháp môn tu luyện Phật gia có nguồn gốc lịch sử xa xưa, do Sư phụ Lý Hồng Chí biên soạn và giới thiệu. Từ tháng 5-1992 được bắt đầu truyền ra công chúng tại Trung Quốc cho đến nay, năm 2002, đã có hơn 100 triệu người tham gia trên hơn 50 quốc gia khác nhau. Trong đó có nhiều thành phần khác nhau như công chức, lãnh đạo, doanh nhân, văn sỹ, học giả; có nhiều lứa tuổi khác nhau, như trẻ em, thanh niên, phụ nữ, người già; có nhiều trình độ tri thức khác nhau, như giáo sư, tiến sĩ, cán bộ lãnh đạo, công nhân, nông dân.
Có người tự hỏi, vì sao Pháp Luân Đại Pháp truyền bá nhanh và rộng, thu hút được nhiều người đến học và vượt qua được mọi ranh giới về quốc gia, dân tộc, kinh tế, tôn giáo đến như vậy. Kỳ thực, nguyên nhân rất đơn giản, đó là vì Pháp Luân Đại Pháp là tu luyện chính Pháp, đem lại lợi ích vô cùng to lớn cho người học.
Chúng tôi soạn những trang web này với mong muốn để tạo điều kiện mọi người hiểu được Pháp Luân Đại Pháp, để những người có duyên với Đạo có thể tham gia tu luyện Pháp Luân Đại Pháp.
I. Đặc điểm Pháp Luân Đại Pháp
1. Pháp Luân Đại Pháp là pháp môn tu luyện Phật gia, không phải Phật giáo, cũng không mang hình thức tôn giáo. Công pháp Phật gia cũng không phải Phật giáo. Pháp Luân Đại Pháp đặt căn bản ở việc tu luyện đồng hoá với đặc tính tối cao của vũ trụ là Chân Thiện Nhẫn, lấy đặc tính tối cao của vũ trụ làm đạo lý chỉ đạo, chiểu theo đạo lý diễn hoá của vũ trụ để tu luyện, ấy là tu theo Đại Đạo.
2. Pháp Luân Đại Pháp đặt trọng tâm vào tu luyện tâm tính. Tu luyện tâm tính là điều then chốt để tăng công. Tâm tính cao bao nhiêu, công cao bấy nhiêu. Tâm tính gồm có đức (đức là một loại vật chất màu trắng) và chuyển hoá của nghiệp (nghiệp là một loại vật chất màu đen); gồm có nhẫn; gồm có ngộ; gồm có xả; xả bỏ các loại dục vọng, các thứ tâm chấp trước của người thường; cũng cần chịu đựng những gian khổ; và cũng bao gồm phương diện khác nhau trong tu luyện. Toàn bộ quá trình tu luyện của người ta không gì khác hơn là quá trình không ngừng dứt bỏ những tâm chấp trước của con người.
3. Pháp Luân Đại Pháp là phương pháp tu luyện tính mệnh song tu hoàn chỉnh. Ngoài tu tâm, còn có bộ phận tu mệnh, tức là luyện động tác (có năm bài tập tất cả). Vừa tu vừa luyện, tu thứ nhất, luyện thứ nhì. Động tác là phương thức bổ trợ để tu luyện viên mãn. Chỉ luyện động tác không tu tâm tính, thì không thể tăng công; chỉ tu tâm tính không luyện đông tác, thì công lực bị ngăn trở, thân thể cũng không chuyển hoá được. Trong quá khứ nhiều người trường kỳ luyện công mà không tăng công, đến khi tu luyện Pháp Luân Đại Pháp mới nhận rõ rằng công lực ấy là do tu mà có chứ không phải do luyện mà có. Tâm tính cao bao nhiêu, công cao bấy nhiêu. Trong quá khứ, luyện công không tăng công có hai nguyên nhân căn bản:
Một, không biết Pháp ở cao tầng, thì không thể tu lên cao;
Hai, không biết hướng nội tu, không coi trọng tu luyện tâm tính.
4. Tu luyện Pháp Luân Đại Pháp lấy Pháp Luân làm trung tâm. Pháp Luân là thể vật chất cao năng lượng tự xoay chuyển và có linh tính; hàng ngày hàng giờ xoay chuyển không ngừng, tự động trợ giúp người tu luyện luyện công. Nói một cách khác, dẫu rằng người tu luyện không phải lúc nào cũng luyện công, nhưng Pháp Luân liên tục không ngừng luyện người ấy. Đây là pháp môn tu luyện duy nhất được công bố trên thế giới có đặc điểm là pháp môn tu luyện “Pháp luyện người”.
5. Pháp Luân Đại Pháp chủ yếu có tám đặc điểm như sau:
Tu luyện Pháp Luân, không luyện đan, không kết đan;
Khi học viên không luyện công, thì Pháp Luân luyện người ấy;
Tu luyện chủ ý thức, bản thân mình đắc công;
Vừa tu tính, vừa luyện mệnh;
Năm bài công pháp, đơn giản đễ học;
Không mang ý niệm, không sai chạy, tăng công nhanh;
Luyện công không đòi hỏi địa điểm, thời gian, phương vị, cũng không giảng thu công;
Có Pháp thân của Sư phụ bảo hộ; không sợ ngoại tà xâm nhiễu,
6. Cuốn Chuyển Pháp Luân là Đại Pháp chỉ đạo tu luyện. Pháp Luân Đại Pháp minh huệ viên dung, động tác dễ tập, Đại Đạo vô cùng giản dị, trên lý luận hoàn toàn không giống như các phương pháp truyền thống, không giống các gia phái truyền dạy luyện đan. Công lý và công pháp của Pháp Luân Đại Pháp đã được trình bày trọn vẹn trong cuốn Chuyển Pháp Luân của Sư phụ Lý Hồng Chí, người học tự lĩnh hội. Liên tục đọc hết lượt này đến lượt khác cuốn Chuyển Pháp Luân là hình thức và nội dung tu luyện chủ yếu của Pháp Luân Đại Pháp, là khoá học hàng ngày cần phải làm.
7. Hình thức tu luyện của Pháp Luân Đại chủ yếu là học Pháp (tức là đọc cuốn Chuyển Pháp Luân) và luyện công tập thể; các học viên trao đổi kinh nghiệm tâm đắc thể hội với nhau.
II. Hiệu quả xã hội của Pháp Luân Đại Pháp
Hiệu quả xã hội của Pháp Luân Đại Pháp thể hiện chủ yếu ở ba phương diện như sau:
1. Đạo đức thăng hoa, mọi nơi làm người tốt
Tu luyện Pháp Luân Đại Pháp nhắm thẳng vào lòng người, trực chỉ nhân tâm, yêu cầu học viên trước hết phải làm người tốt nơi xã hội người thường, trở thành người lương thiện, lúc nào cũng từ bi, vô oán vô hận, lấy khổ làm vui, tiếp đến nâng lên đến mức là làm gì cũng phải nghĩ đến người khác, tu thành cảnh giới vô tư vô ngã, người trước mình sau. Tu luyện tâm tính đặt lên thứ nhất; tâm tính cao bao nhiêu, công cao bấy nhiêu, đây là chân lý tuyệt đối. Do vậy, học viên Pháp Luân Đại Pháp tự giác chiểu theo công pháp mà yêu cầu bản thân, đồng hoá với đặc tính Chân Thiện Nhẫn tối cao của vũ trụ, nghiêm khắc với mình, khoan dung với người; có trách nhiệm với bản thân, có trách nhiệm với xã hội. Tại đơn vị công tác, học viên cần phải trân trọng nghề nghiệp và cương vị của mình, phục tùng lãnh đạo, việc gì được phân cũng không nề hà, vô tư cống hiến. Tại xã hội, họ tuân thủ luật pháp, đề cao đạo đức, không làm điều xấu, nhất tâm hướng thiện. Tại gia đình, họ kính trên nhường dưới, tôn trọng thương mến, hành xử hoà ái, hữu hảo láng giềng. Học viên phải coi nhẹ danh lợi, không tranh không đấu; khi gặp mâu thuẫn thì trước hết phải hướng nội mà tìm chỗ thiếu sót của mình, không đùn đẩy, không so đo, không oán không hận. Tại lời nói hành động nơi người thường, học viên phải chú ý không ngừng khắc phục tâm ganh tỵ tật đố, tâm phô trương hiển thị, tâm tranh đấu, tâm hoan hỷ thái quá cùng các loại tâm không tốt khác; ở đâu đều làm người tốt.
2. Nâng cao tâm tính, hết bệnh khoẻ người
Trong số các học viên Pháp Luân Đại Pháp có nhiều người trước đây vốn có bệnh, có người thậm chí đến học Pháp Luân Đại Pháp là để chữa bệnh. Đến khi họ hiểu được pháp lý của Pháp Luân Đại Pháp, vứt bỏ tâm hữu cầu và chú trọng vào tu luyện tâm tính, thì tuỳ theo tâm tính nâng cao mà công cũng tăng lên, tầng cũng được nâng lên và thân thể cũng được tịnh hoá, trong vô niệm mà đạt đến trạng thái vô bệnh. Pháp Luân Đại Pháp là tu luyện, không phải trị bệnh. Nhưng chỉ cần chân tu thì hiện quả chữa bệnh khoẻ người lại vô cùng rõ ràng.
Theo điều tra 12731 học viên của một trạm phụ đạo lớn ở Bắc Kinh, thì trong 12731 học viên ấy có 93,4% (11892 người) trước khi tu luyện đã từng có bệnh; có một loại, hai loại cho đến ba loại bệnh. Sau khi luyện công thì tổng số những người chuyển biến tốt lên (bao gồm 3 loại: có chuyển biến, chuyển biến tốt, và khỏi hẳn) chiếm tỷ lệ 99,1%. Trong đó 58,5% (6962 người) khỏi hoàn toàn. Trung bình mỗi người mỗi năm tiết kiệm được 3275 nhân dân tệ tiền y-tế, tổng số mỗi năm tiết kiệm 4170 vạn nhân dân tệ. Theo điều tra ở một trạm phụ đạo khác ở Bắc Kinh, thì trong 584 học viên được điều tra có 96,5% số người đã khỏi bệnh hoặc chuyển biến rõ rệt, 87,6% số người không còn dùng thuốc nữa. Chi phí thuốc men trung bình cho mỗi người giảm từ 3700 nhân dân tệ một năm xuống 70 nhân dân tệ một năm. Hai báo cáo trên đây chỉ ra rằng Pháp Luân Đại Pháp không chỉ đem lại lợi ích chữa bệnh khoẻ người phổ biến cho học viên, mà còn đem lại lợi ích to lớn cho quốc gia, tiết kiệm chi phí y-tế. Nhiều học viên cao hứng nói: “Bản thân thôi chịu khổ; vợ con khỏi mang phiền; thuốc men nay dứt bỏ; xã hội lợi hiển nhiên”.
3. Có trách nhiệm với xã hội, làm người có ích lợi cho xã hội
Học viên Pháp Luân Đại Pháp mang Chân Thiện Nhẫn trong tâm, khi hành xử với mọi người trong các sự việc khác nhau đều có yêu cầu tâm tính cho bản thân. Việc gì có ích cho xã hội, họ xung phong làm; làm việc tốt xong, cũng không lưu danh tính. Những việc không lợi cho xã hội, phương hại đến người khác, họ nhất định không làm. Đó là cảnh giới tư tưởng của những học viên Pháp Luân Đại Pháp.
Trong những quyên góp cứu tế mấy năm qua, có nhiều học viên đã quyên đến hàng vạn nhân dân tệ, nhưng chỉ lưu danh ở báo chí, truyền thanh, hay truyền hình dưới một cái tên là “học viên Pháp Luân Công”.
Những sự thực về ba phương diện trên đây, đã bày tỏ rõ ràng tác dụng tích cực của Pháp Luân Đại Pháp đối với xã hội:
Có ích nâng cao đạo đức cho mọi người, cống hiến cho văn minh tinh thần của xã hội;
Có ích nâng cao sức khoẻ cho mọi người, cống hiến cho sức khoẻ nhân dân;
Có ích nâng cao trách nhiệm cá nhân đối với xã hội, cống hiến cho sự ổn định tiến bộ của xã hội.
Tóm lại, ai tu luyện Pháp Luân Đại Pháp cũng có tác dụng tốt đối với văn minh xã hội cả về thể chất lẫn tinh thần.
III. Truyền bá và phát triển của Pháp Luân Đại Pháp
1. Truyền bá và phát triển của Pháp Luân Đại Pháp
Sư phụ Lý Hồng Chí, người sáng lập Pháp Luân Đại Pháp, đã truyền công giảng Pháp tại Trung Quốc trong giai đoạn từ tháng Năm 1992 đến cuối năm 1994, tổng cộng tất cả 53 lớp học đại trà. Trong đó có 13 lớp mở tại Bắc Kinh, chiếm gần 1/4 tổng số, như vậy đây là thành phố đứng đầu về số lớp học mà Sư phụ trực tiếp truyền công giảng Pháp. Ước tính số học viên tại Bắc Kinh tham dự trên một vạn lượt người.
Để ủng hộ hoạt động khí công toàn quốc, Sư phụ Lý Hồng Chí đã dẫn một số đồ đệ cùng đến tham dự hai lần Hội Sức khoẻ Đông phương năm 1992 và năm 1993. Cả hai lần hội ấy, Pháp Luân Đại Pháp đều là công pháp nổi trội nhất. Tại Hội Sức khoẻ năm 1992, Pháp Luân Công đã vinh dự được chọn là “minh tinh công phái”, và cũng là công phái được biểu dương nhiều nhất. Tại Hội Sức khoẻ lần thứ hai vào năm 1993, Sư phụ Lý Hồng Chí đã được các uỷ viên của Hội mời đến phát biểu ba ngày về khí công học thuật. Bài phát biểu lần nào cũng kéo dài quá thời gian. Ngoài ra Sư phụ cũng nhận “giải thưởng đặc biệt”, được tặng danh hiệu “khí công sư được hoan nghênh nhất”, và giải duy nhất tối cao là “giải khoa học tiến bộ”.
Sau sự kiện có ảnh hưởng lớn tại Bắc Kinh ấy, số người học Pháp Luân Đại Pháp cấp tốc tăng mau.
2. Pháp Luân Đại Pháp không thực hành quản chế
Pháp Luân Đại Pháp chỉ coi trọng thực tu, không coi trọng hình thức; không thực hành quản chế. Không có cơ cấu quản lý, không thiết lập phòng ban, không có nhân viên công tác chuyên trách, cũng không có những thứ như chương trình tổ chức hay đăng ký học viên. Ai muốn học Pháp Luân Đại Pháp thì đọc cuốn Chuyển Pháp Luân, muốn luyện động tác thì đến các điểm luyện công, các phụ trách viên và học viên lâu năm có nghĩa vụ hướng dẫn tập. Tu luyện là tự nguyện.
Tại sao Pháp Luân Đại Pháp không coi trọng hình thức, không quản chế? Ấy là vì công pháp và công lý quyết định. Pháp Luân Đại Pháp lấy “Chân Thiện Nhẫn” làm gốc, trực chỉ nhân tâm nhắm thẳng vào lòng người; nhấn mạnh rằng tu luyện phải tu tâm tính, đồng hoá với đặc tính tối cao của vũ trụ là “Chân Thiện Nhẫn”. Không tu tâm chỉ luyện công thì không phải tu luyện chân chính. Tu luyện là việc của bản thân mình, không ai có thể quản chế, cũng không ai có thể làm thay. Nếu người kia không muốn tu luyện chân chính, thì có quản chế bên ngoài thế nào cũng không tác dụng. Trái lại, người tu luyện chân chính, trong tâm ôm giữ “Chân Thiện Nhẫn”, “lấy Pháp làm thầy”; họ có thể phân biệt thiện ác, tốt xấu; lúc nào cũng có tâm Pháp tự quản chế lấy bản thân mình, không cần người khác quản.
3. Học viên Pháp Luân Đại Pháp có yêu cầu nghiêm khắc về tâm tính và hành vi
Sư phụ Lý Hồng Chí có yêu cầu và quy định nghiêm khắc đối với trạm phụ đạo và học viên Pháp Luân Đại Pháp. Ví dụ: trạm phụ đạo là một tổ chức tu luyện có tính quần chúng chuyên nhất trong việc hướng dẫn tu luyện, nhất định không được dùng phương pháp quản lý có cơ cấu hành chính và thành phần làm kinh tế, không được phép giữ tiền hay của cải, không được phép có hoạt động chữa bệnh, không được quản chế; không ai được phép mượn danh nghĩa tu luyện Pháp Luân Đại Pháp để tuyên truyền bất kỳ tôn giáo nào khác; phải nghiêm khắc tuân thủ luật pháp quốc gia; hành vi vi phạm chính sách pháp luật nhà nước của bất kỳ ai cũng đều không được chấp nhận trong Pháp Luân Đại Pháp; phải lấy tu luyện tâm tính làm gốc, tuyệt đối không can thiệp vào chính trị quốc gia, lại càng không được tham gia vào bất kể hoạt động đấu tranh chính trị nào; ai vi phạm đều không được tính là đệ tử Pháp Luân Đại Pháp, mọi hậu quả đều do bản thân cá nhân đương sự chịu trách nhiệm; phải tích cực duy trì đoàn kết trong giới tu luyện, cộng đồng đều nỗ lực vì phát triển văn hoá truyền thống nhân loại; những vật dụng cần thiết cho học viên như kinh sách, tài liệu, băng hình băng tiếng, v.v của Pháp Luân Đại Pháp đều phải thông qua các kênh phân phối và xuất bản thông thường ngoài xã hội, trạm phụ đạo không được kinh doanh; trạm phụ đạo và phụ đạo viên không được mượn bất kể danh nghĩa nào để thu thập tiền bạc của cải dưới bất kể hình thức nào như quyên góp, tài trợ, tặng vật, v.v.
Đối với những quy định ấy, trạm phụ đạo và tất cả các học viên đều phải tự giác tuân thủ một cách nghiêm túc, từ đó bảo đảm được tính đúng đắn trước sau cũng như sự truyền bá và phát triển lành mạnh của Pháp Luân Đại Pháp. Đồng thời những quy định này cũng minh chứng được rằng Pháp Luân Đại Pháp có trách nhiệm rất cao đối với chính phủ, với xã hội và với học viên.
IV. Pháp Luân Đại Pháp trên thế giới
Hiện nay những người theo học Pháp Luân Đại Pháp đã có trên 50 quốc gia khác nhau, các chủng tộc, các ngôn ngữ khác nhau. Nhiều nơi trên các nước đã có đăng ký thành lập tổ chức “Pháp Luân Phật Học Hội”.
Ngày 3 tháng Tám, 1994, thị trưởng Houston, Texas đã trân trọng trao tặng danh hiệu “công dân danh dự” và “sứ giả thiện lành”. Đến 12 tháng Mười, 1996, thị trưởng Houston, Texas lại tuyên bố ngày hôm ấy là “ngày của ông Lý Hồng Chí”. Trong bản công bố ấy có đoạn viết “Pháp Luân Đại Pháp đã vượt trên biên giới về văn hoá cũng như chủng tộc. Nó đưa chân lý vũ trụ đến mọi miền thế giới cũng như bắc một chiếc cầu nối liền Đông phương với Tây phương. Ông Lý Hồng Chí đã truyền bá không biết mệt mỏi Pháp Luân Đại Pháp từ Trung Quốc đến khắp những nơi khác trên hoàn cầu, qua đó Ông đã cảm động đến muôn vàn người dân thế giới và gây dựng uy tín quốc tế của mình”. Ngoài ra thành phố Houston cũng mời Sư phụ Lý Hồng Chí đến thăm Trung tâm Vũ trụ Quốc gia, và tổ chức toạ đàm khoa học tại đó.
Pháp Luân Đại Pháp đã được sự hưởng ứng trên toàn thế giới. Từ đó đến nay Pháp Luân Đại Pháp đã nhận hàng trăm giải thưởng, khen tặng của các thành phố quốc gia khác nhau.
Hiện nay cuốn sách cơ bản của môn phái, cuốn Chuyển Pháp Luân, đã được chuyển dịch sang hơn 10 thứ tiếng, trong đó có cả tiếng Việt.