Pháp luân đại pháp

<img src='http://www.minhhai.mattroido.org/exalbum/data/media/1/shawtyxnikki_pic1.jpg' border='0' alt='user posted image' />

muợn tạm cái hình của bà này để tăng thêm phần hấp dẫn cho 1 môn nội công tà giáo đã bị cấm ở Trung Hoa

Pháp luân công là một công phu nổi tiếng của Trung quốc. Năm 1992 Thầy Lý hồng chí đã chỉnh đổi từ nguyên dạng ban đầu để có thể phù hợp với đông đảo quần chúng. Pháp luân công đã phát triển mạnh mẽ ở Trung quốc sau đó nhanh chóng tạo nên một ảnh hưởng rất lớn. Tính đến năm 2002 Pháp luân công đã được hình thành & phát triển ở hơn 50 quốc gia trên thế giới với số người theo học là trên 100 triệu người. Nhưng sau đó Sư phụ ( Thày Lý hông chí - theo cách gọi của toàn thể đệ tử Pháp luân công trên thế giới ) đã có những hành động dính dáng đến chính trị . Pháp luân giáo hội đã bị giải thể ở Trung quốc & bị cấm tập luyện tại nước này. Tuy nhiên đó là vấn đề riêng chúng ta không cần quan tâm mà chỉ cần biết một điều . Tác dụng & sự phát triển của Pháp luân công là một sự thực mà không ai phủ nhận được. Hôm nay tại hạ xin bắt đầu giới thiệu về công pháp này một cách cặn kẽ về nguyên lý & phương cách tập luyện ( có kèm theo hướng dẫn chi tiết bằng hình ảnh & video).
Do tầm hiểu biết hạn hẹp cho nên có gì sai sót mong mọi người chỉ giáo cho. Tại hạ chân thành cảm ơn

Chú ý : Tất cả những tài liệu ở đây đều được cung cấp bởi liên hội Pháp luân đại pháp .

Đơnphong

Bắt đầu về Pháp luân đại pháp :

Giới thiệu sơ lược

Pháp Luân Đại Pháp (còn gọi là Pháp Luân Công, hoặc Pháp Luân Tu Luyện Đại Pháp) là một đại pháp môn tu luyện Phật gia có nguồn gốc lịch sử xa xưa, do Sư phụ Lý Hồng Chí biên soạn và giới thiệu. Từ tháng 5-1992 được bắt đầu truyền ra công chúng tại Trung Quốc cho đến nay, năm 2002, đã có hơn 100 triệu người tham gia trên hơn 50 quốc gia khác nhau. Trong đó có nhiều thành phần khác nhau như công chức, lãnh đạo, doanh nhân, văn sỹ, học giả; có nhiều lứa tuổi khác nhau, như trẻ em, thanh niên, phụ nữ, người già; có nhiều trình độ tri thức khác nhau, như giáo sư, tiến sĩ, cán bộ lãnh đạo, công nhân, nông dân.

Có người tự hỏi, vì sao Pháp Luân Đại Pháp truyền bá nhanh và rộng, thu hút được nhiều người đến học và vượt qua được mọi ranh giới về quốc gia, dân tộc, kinh tế, tôn giáo đến như vậy. Kỳ thực, nguyên nhân rất đơn giản, đó là vì Pháp Luân Đại Pháp là tu luyện chính Pháp, đem lại lợi ích vô cùng to lớn cho người học.

Chúng tôi soạn những trang web này với mong muốn để tạo điều kiện mọi người hiểu được Pháp Luân Đại Pháp, để những người có duyên với Đạo có thể tham gia tu luyện Pháp Luân Đại Pháp.

I. Đặc điểm Pháp Luân Đại Pháp

1. Pháp Luân Đại Pháp là pháp môn tu luyện Phật gia, không phải Phật giáo, cũng không mang hình thức tôn giáo. Công pháp Phật gia cũng không phải Phật giáo. Pháp Luân Đại Pháp đặt căn bản ở việc tu luyện đồng hoá với đặc tính tối cao của vũ trụ là Chân Thiện Nhẫn, lấy đặc tính tối cao của vũ trụ làm đạo lý chỉ đạo, chiểu theo đạo lý diễn hoá của vũ trụ để tu luyện, ấy là tu theo Đại Đạo.

2. Pháp Luân Đại Pháp đặt trọng tâm vào tu luyện tâm tính. Tu luyện tâm tính là điều then chốt để tăng công. Tâm tính cao bao nhiêu, công cao bấy nhiêu. Tâm tính gồm có đức (đức là một loại vật chất màu trắng) và chuyển hoá của nghiệp (nghiệp là một loại vật chất màu đen); gồm có nhẫn; gồm có ngộ; gồm có xả; xả bỏ các loại dục vọng, các thứ tâm chấp trước của người thường; cũng cần chịu đựng những gian khổ; và cũng bao gồm phương diện khác nhau trong tu luyện. Toàn bộ quá trình tu luyện của người ta không gì khác hơn là quá trình không ngừng dứt bỏ những tâm chấp trước của con người.

3. Pháp Luân Đại Pháp là phương pháp tu luyện tính mệnh song tu hoàn chỉnh. Ngoài tu tâm, còn có bộ phận tu mệnh, tức là luyện động tác (có năm bài tập tất cả). Vừa tu vừa luyện, tu thứ nhất, luyện thứ nhì. Động tác là phương thức bổ trợ để tu luyện viên mãn. Chỉ luyện động tác không tu tâm tính, thì không thể tăng công; chỉ tu tâm tính không luyện đông tác, thì công lực bị ngăn trở, thân thể cũng không chuyển hoá được. Trong quá khứ nhiều người trường kỳ luyện công mà không tăng công, đến khi tu luyện Pháp Luân Đại Pháp mới nhận rõ rằng công lực ấy là do tu mà có chứ không phải do luyện mà có. Tâm tính cao bao nhiêu, công cao bấy nhiêu. Trong quá khứ, luyện công không tăng công có hai nguyên nhân căn bản:

Một, không biết Pháp ở cao tầng, thì không thể tu lên cao;
Hai, không biết hướng nội tu, không coi trọng tu luyện tâm tính.
4. Tu luyện Pháp Luân Đại Pháp lấy Pháp Luân làm trung tâm. Pháp Luân là thể vật chất cao năng lượng tự xoay chuyển và có linh tính; hàng ngày hàng giờ xoay chuyển không ngừng, tự động trợ giúp người tu luyện luyện công. Nói một cách khác, dẫu rằng người tu luyện không phải lúc nào cũng luyện công, nhưng Pháp Luân liên tục không ngừng luyện người ấy. Đây là pháp môn tu luyện duy nhất được công bố trên thế giới có đặc điểm là pháp môn tu luyện “Pháp luyện người”.

5. Pháp Luân Đại Pháp chủ yếu có tám đặc điểm như sau:

Tu luyện Pháp Luân, không luyện đan, không kết đan;
Khi học viên không luyện công, thì Pháp Luân luyện người ấy;
Tu luyện chủ ý thức, bản thân mình đắc công;
Vừa tu tính, vừa luyện mệnh;
Năm bài công pháp, đơn giản đễ học;
Không mang ý niệm, không sai chạy, tăng công nhanh;
Luyện công không đòi hỏi địa điểm, thời gian, phương vị, cũng không giảng thu công;
Có Pháp thân của Sư phụ bảo hộ; không sợ ngoại tà xâm nhiễu,
6. Cuốn Chuyển Pháp Luân là Đại Pháp chỉ đạo tu luyện. Pháp Luân Đại Pháp minh huệ viên dung, động tác dễ tập, Đại Đạo vô cùng giản dị, trên lý luận hoàn toàn không giống như các phương pháp truyền thống, không giống các gia phái truyền dạy luyện đan. Công lý và công pháp của Pháp Luân Đại Pháp đã được trình bày trọn vẹn trong cuốn Chuyển Pháp Luân của Sư phụ Lý Hồng Chí, người học tự lĩnh hội. Liên tục đọc hết lượt này đến lượt khác cuốn Chuyển Pháp Luân là hình thức và nội dung tu luyện chủ yếu của Pháp Luân Đại Pháp, là khoá học hàng ngày cần phải làm.

7. Hình thức tu luyện của Pháp Luân Đại chủ yếu là học Pháp (tức là đọc cuốn Chuyển Pháp Luân) và luyện công tập thể; các học viên trao đổi kinh nghiệm tâm đắc thể hội với nhau.

II. Hiệu quả xã hội của Pháp Luân Đại Pháp

Hiệu quả xã hội của Pháp Luân Đại Pháp thể hiện chủ yếu ở ba phương diện như sau:

1. Đạo đức thăng hoa, mọi nơi làm người tốt

Tu luyện Pháp Luân Đại Pháp nhắm thẳng vào lòng người, trực chỉ nhân tâm, yêu cầu học viên trước hết phải làm người tốt nơi xã hội người thường, trở thành người lương thiện, lúc nào cũng từ bi, vô oán vô hận, lấy khổ làm vui, tiếp đến nâng lên đến mức là làm gì cũng phải nghĩ đến người khác, tu thành cảnh giới vô tư vô ngã, người trước mình sau. Tu luyện tâm tính đặt lên thứ nhất; tâm tính cao bao nhiêu, công cao bấy nhiêu, đây là chân lý tuyệt đối. Do vậy, học viên Pháp Luân Đại Pháp tự giác chiểu theo công pháp mà yêu cầu bản thân, đồng hoá với đặc tính Chân Thiện Nhẫn tối cao của vũ trụ, nghiêm khắc với mình, khoan dung với người; có trách nhiệm với bản thân, có trách nhiệm với xã hội. Tại đơn vị công tác, học viên cần phải trân trọng nghề nghiệp và cương vị của mình, phục tùng lãnh đạo, việc gì được phân cũng không nề hà, vô tư cống hiến. Tại xã hội, họ tuân thủ luật pháp, đề cao đạo đức, không làm điều xấu, nhất tâm hướng thiện. Tại gia đình, họ kính trên nhường dưới, tôn trọng thương mến, hành xử hoà ái, hữu hảo láng giềng. Học viên phải coi nhẹ danh lợi, không tranh không đấu; khi gặp mâu thuẫn thì trước hết phải hướng nội mà tìm chỗ thiếu sót của mình, không đùn đẩy, không so đo, không oán không hận. Tại lời nói hành động nơi người thường, học viên phải chú ý không ngừng khắc phục tâm ganh tỵ tật đố, tâm phô trương hiển thị, tâm tranh đấu, tâm hoan hỷ thái quá cùng các loại tâm không tốt khác; ở đâu đều làm người tốt.

2. Nâng cao tâm tính, hết bệnh khoẻ người

Trong số các học viên Pháp Luân Đại Pháp có nhiều người trước đây vốn có bệnh, có người thậm chí đến học Pháp Luân Đại Pháp là để chữa bệnh. Đến khi họ hiểu được pháp lý của Pháp Luân Đại Pháp, vứt bỏ tâm hữu cầu và chú trọng vào tu luyện tâm tính, thì tuỳ theo tâm tính nâng cao mà công cũng tăng lên, tầng cũng được nâng lên và thân thể cũng được tịnh hoá, trong vô niệm mà đạt đến trạng thái vô bệnh. Pháp Luân Đại Pháp là tu luyện, không phải trị bệnh. Nhưng chỉ cần chân tu thì hiện quả chữa bệnh khoẻ người lại vô cùng rõ ràng.

Theo điều tra 12731 học viên của một trạm phụ đạo lớn ở Bắc Kinh, thì trong 12731 học viên ấy có 93,4% (11892 người) trước khi tu luyện đã từng có bệnh; có một loại, hai loại cho đến ba loại bệnh. Sau khi luyện công thì tổng số những người chuyển biến tốt lên (bao gồm 3 loại: có chuyển biến, chuyển biến tốt, và khỏi hẳn) chiếm tỷ lệ 99,1%. Trong đó 58,5% (6962 người) khỏi hoàn toàn. Trung bình mỗi người mỗi năm tiết kiệm được 3275 nhân dân tệ tiền y-tế, tổng số mỗi năm tiết kiệm 4170 vạn nhân dân tệ. Theo điều tra ở một trạm phụ đạo khác ở Bắc Kinh, thì trong 584 học viên được điều tra có 96,5% số người đã khỏi bệnh hoặc chuyển biến rõ rệt, 87,6% số người không còn dùng thuốc nữa. Chi phí thuốc men trung bình cho mỗi người giảm từ 3700 nhân dân tệ một năm xuống 70 nhân dân tệ một năm. Hai báo cáo trên đây chỉ ra rằng Pháp Luân Đại Pháp không chỉ đem lại lợi ích chữa bệnh khoẻ người phổ biến cho học viên, mà còn đem lại lợi ích to lớn cho quốc gia, tiết kiệm chi phí y-tế. Nhiều học viên cao hứng nói: “Bản thân thôi chịu khổ; vợ con khỏi mang phiền; thuốc men nay dứt bỏ; xã hội lợi hiển nhiên”.

3. Có trách nhiệm với xã hội, làm người có ích lợi cho xã hội

Học viên Pháp Luân Đại Pháp mang Chân Thiện Nhẫn trong tâm, khi hành xử với mọi người trong các sự việc khác nhau đều có yêu cầu tâm tính cho bản thân. Việc gì có ích cho xã hội, họ xung phong làm; làm việc tốt xong, cũng không lưu danh tính. Những việc không lợi cho xã hội, phương hại đến người khác, họ nhất định không làm. Đó là cảnh giới tư tưởng của những học viên Pháp Luân Đại Pháp.

Trong những quyên góp cứu tế mấy năm qua, có nhiều học viên đã quyên đến hàng vạn nhân dân tệ, nhưng chỉ lưu danh ở báo chí, truyền thanh, hay truyền hình dưới một cái tên là “học viên Pháp Luân Công”.

Những sự thực về ba phương diện trên đây, đã bày tỏ rõ ràng tác dụng tích cực của Pháp Luân Đại Pháp đối với xã hội:

Có ích nâng cao đạo đức cho mọi người, cống hiến cho văn minh tinh thần của xã hội;
Có ích nâng cao sức khoẻ cho mọi người, cống hiến cho sức khoẻ nhân dân;
Có ích nâng cao trách nhiệm cá nhân đối với xã hội, cống hiến cho sự ổn định tiến bộ của xã hội.
Tóm lại, ai tu luyện Pháp Luân Đại Pháp cũng có tác dụng tốt đối với văn minh xã hội cả về thể chất lẫn tinh thần.

III. Truyền bá và phát triển của Pháp Luân Đại Pháp

1. Truyền bá và phát triển của Pháp Luân Đại Pháp

Sư phụ Lý Hồng Chí, người sáng lập Pháp Luân Đại Pháp, đã truyền công giảng Pháp tại Trung Quốc trong giai đoạn từ tháng Năm 1992 đến cuối năm 1994, tổng cộng tất cả 53 lớp học đại trà. Trong đó có 13 lớp mở tại Bắc Kinh, chiếm gần 1/4 tổng số, như vậy đây là thành phố đứng đầu về số lớp học mà Sư phụ trực tiếp truyền công giảng Pháp. Ước tính số học viên tại Bắc Kinh tham dự trên một vạn lượt người.

Để ủng hộ hoạt động khí công toàn quốc, Sư phụ Lý Hồng Chí đã dẫn một số đồ đệ cùng đến tham dự hai lần Hội Sức khoẻ Đông phương năm 1992 và năm 1993. Cả hai lần hội ấy, Pháp Luân Đại Pháp đều là công pháp nổi trội nhất. Tại Hội Sức khoẻ năm 1992, Pháp Luân Công đã vinh dự được chọn là “minh tinh công phái”, và cũng là công phái được biểu dương nhiều nhất. Tại Hội Sức khoẻ lần thứ hai vào năm 1993, Sư phụ Lý Hồng Chí đã được các uỷ viên của Hội mời đến phát biểu ba ngày về khí công học thuật. Bài phát biểu lần nào cũng kéo dài quá thời gian. Ngoài ra Sư phụ cũng nhận “giải thưởng đặc biệt”, được tặng danh hiệu “khí công sư được hoan nghênh nhất”, và giải duy nhất tối cao là “giải khoa học tiến bộ”.

Sau sự kiện có ảnh hưởng lớn tại Bắc Kinh ấy, số người học Pháp Luân Đại Pháp cấp tốc tăng mau.

2. Pháp Luân Đại Pháp không thực hành quản chế

Pháp Luân Đại Pháp chỉ coi trọng thực tu, không coi trọng hình thức; không thực hành quản chế. Không có cơ cấu quản lý, không thiết lập phòng ban, không có nhân viên công tác chuyên trách, cũng không có những thứ như chương trình tổ chức hay đăng ký học viên. Ai muốn học Pháp Luân Đại Pháp thì đọc cuốn Chuyển Pháp Luân, muốn luyện động tác thì đến các điểm luyện công, các phụ trách viên và học viên lâu năm có nghĩa vụ hướng dẫn tập. Tu luyện là tự nguyện.

Tại sao Pháp Luân Đại Pháp không coi trọng hình thức, không quản chế? Ấy là vì công pháp và công lý quyết định. Pháp Luân Đại Pháp lấy “Chân Thiện Nhẫn” làm gốc, trực chỉ nhân tâm nhắm thẳng vào lòng người; nhấn mạnh rằng tu luyện phải tu tâm tính, đồng hoá với đặc tính tối cao của vũ trụ là “Chân Thiện Nhẫn”. Không tu tâm chỉ luyện công thì không phải tu luyện chân chính. Tu luyện là việc của bản thân mình, không ai có thể quản chế, cũng không ai có thể làm thay. Nếu người kia không muốn tu luyện chân chính, thì có quản chế bên ngoài thế nào cũng không tác dụng. Trái lại, người tu luyện chân chính, trong tâm ôm giữ “Chân Thiện Nhẫn”, “lấy Pháp làm thầy”; họ có thể phân biệt thiện ác, tốt xấu; lúc nào cũng có tâm Pháp tự quản chế lấy bản thân mình, không cần người khác quản.

3. Học viên Pháp Luân Đại Pháp có yêu cầu nghiêm khắc về tâm tính và hành vi

Sư phụ Lý Hồng Chí có yêu cầu và quy định nghiêm khắc đối với trạm phụ đạo và học viên Pháp Luân Đại Pháp. Ví dụ: trạm phụ đạo là một tổ chức tu luyện có tính quần chúng chuyên nhất trong việc hướng dẫn tu luyện, nhất định không được dùng phương pháp quản lý có cơ cấu hành chính và thành phần làm kinh tế, không được phép giữ tiền hay của cải, không được phép có hoạt động chữa bệnh, không được quản chế; không ai được phép mượn danh nghĩa tu luyện Pháp Luân Đại Pháp để tuyên truyền bất kỳ tôn giáo nào khác; phải nghiêm khắc tuân thủ luật pháp quốc gia; hành vi vi phạm chính sách pháp luật nhà nước của bất kỳ ai cũng đều không được chấp nhận trong Pháp Luân Đại Pháp; phải lấy tu luyện tâm tính làm gốc, tuyệt đối không can thiệp vào chính trị quốc gia, lại càng không được tham gia vào bất kể hoạt động đấu tranh chính trị nào; ai vi phạm đều không được tính là đệ tử Pháp Luân Đại Pháp, mọi hậu quả đều do bản thân cá nhân đương sự chịu trách nhiệm; phải tích cực duy trì đoàn kết trong giới tu luyện, cộng đồng đều nỗ lực vì phát triển văn hoá truyền thống nhân loại; những vật dụng cần thiết cho học viên như kinh sách, tài liệu, băng hình băng tiếng, v.v của Pháp Luân Đại Pháp đều phải thông qua các kênh phân phối và xuất bản thông thường ngoài xã hội, trạm phụ đạo không được kinh doanh; trạm phụ đạo và phụ đạo viên không được mượn bất kể danh nghĩa nào để thu thập tiền bạc của cải dưới bất kể hình thức nào như quyên góp, tài trợ, tặng vật, v.v.

Đối với những quy định ấy, trạm phụ đạo và tất cả các học viên đều phải tự giác tuân thủ một cách nghiêm túc, từ đó bảo đảm được tính đúng đắn trước sau cũng như sự truyền bá và phát triển lành mạnh của Pháp Luân Đại Pháp. Đồng thời những quy định này cũng minh chứng được rằng Pháp Luân Đại Pháp có trách nhiệm rất cao đối với chính phủ, với xã hội và với học viên.

IV. Pháp Luân Đại Pháp trên thế giới

Hiện nay những người theo học Pháp Luân Đại Pháp đã có trên 50 quốc gia khác nhau, các chủng tộc, các ngôn ngữ khác nhau. Nhiều nơi trên các nước đã có đăng ký thành lập tổ chức “Pháp Luân Phật Học Hội”.

Ngày 3 tháng Tám, 1994, thị trưởng Houston, Texas đã trân trọng trao tặng danh hiệu “công dân danh dự” và “sứ giả thiện lành”. Đến 12 tháng Mười, 1996, thị trưởng Houston, Texas lại tuyên bố ngày hôm ấy là “ngày của ông Lý Hồng Chí”. Trong bản công bố ấy có đoạn viết “Pháp Luân Đại Pháp đã vượt trên biên giới về văn hoá cũng như chủng tộc. Nó đưa chân lý vũ trụ đến mọi miền thế giới cũng như bắc một chiếc cầu nối liền Đông phương với Tây phương. Ông Lý Hồng Chí đã truyền bá không biết mệt mỏi Pháp Luân Đại Pháp từ Trung Quốc đến khắp những nơi khác trên hoàn cầu, qua đó Ông đã cảm động đến muôn vàn người dân thế giới và gây dựng uy tín quốc tế của mình”. Ngoài ra thành phố Houston cũng mời Sư phụ Lý Hồng Chí đến thăm Trung tâm Vũ trụ Quốc gia, và tổ chức toạ đàm khoa học tại đó.

Pháp Luân Đại Pháp đã được sự hưởng ứng trên toàn thế giới. Từ đó đến nay Pháp Luân Đại Pháp đã nhận hàng trăm giải thưởng, khen tặng của các thành phố quốc gia khác nhau.

Hiện nay cuốn sách cơ bản của môn phái, cuốn Chuyển Pháp Luân, đã được chuyển dịch sang hơn 10 thứ tiếng, trong đó có cả tiếng Việt.
 
Dành cho người mới bắt đầu :

Học tập Pháp Luân Đại Pháp hoàn toàn trên cơ sở tự nguyện, và cũng không có một quy định là phải bắt đầu học Pháp Luân Đại Pháp như thế nào. Một khi người học phát tâm muốn học, muốn tu luyện một cách chân chính thì con đường tự khắc sẽ rộng mở. Nói chung, quý vị sẽ thấy rằng, học Pháp Luân Đại Pháp không hề giống bất kể cái gì mà trước đó quý vị đã từng theo đuổi. Nó rất độc đáo và sâu sắc. Những học viên đều cho rằng, nên bắt đầu từ tâm kiên định và cởi mở. Nhiều học viên cũng thấy rằng học tập theo nhóm sẽ thích thú và mau tiến bộ hơn.

Có năm bài tập động tác rất nhẹ nhàng, trong đó có một bài thiền định. Học viên cần đặt trong tâm học đạo lý Chân Thiện Nhẫn, bằng cách đọc cuốn Chuyển Pháp Luân của Sư phụ Lý Hồng Chí. Hàng ngày học viên đọc đi đọc lại cuốn sách này và tập các bài động tác. Tất nhiên, học viên cần đưa những đạo lý đã học vào thực hành trong cuộc sống của mình.

Có thể bắt đầu học Pháp Luân Đại Pháp theo một trong những cách được gợi ý dưới đây:

1. Tự học theo sách

Chúng tôi gợi ý là chư vị bắt đầu đọc từ cuốn Pháp Luân Công. Trong cuốn sách này có trình bày đạo lý của Pháp Luân Đại Pháp dưới dạng dẫn nhập, và có hướng dẫn thực hành năm bài tập động tác. Sau khi bắt đầu tập và hiểu được phần căn bản, quý vị đọc và thực hành tiếp theo cuốn Chuyển Pháp Luân. Cuốn Chuyển Pháp Luân trình bày sâu về đạo lý Chân Thiện Nhẫn qua chín bài giảng Pháp, nhưng không có phần hướng dẫn bài tập. Đọc và thực hành theo đạo lý Chân Thiện Nhẫn cùng với tập năm bài tập chính là thực sự tham gia học tập Pháp Luân Đại Pháp.
Tiếp theo đó, chúng tôi gợi ý chư vị đọc cuốn Pháp Luân Phật Pháp - Tinh tấn yếu chỉ. Cuốn sách này bao gồm các bài kinh văn ngắn của Sư phụ. Sau đó lần lượt đọc các bài kinh văn ngắn được thâu tập trong mục gọi là Kinh văn mới; tức là các bài kinh văn mà Sư phụ giảng sau tháng 12-1998. Hướng dẫn năm bài tập công pháp cũng được viết riêng trong cuốn Pháp Luân Phật Pháp - Đại viên mãn Pháp. Chúng tôi gợi ý quý vị hãy download các băng hình, băng tiếng liên quan để học được thuận tiện hơn.

Không có quy định chặt chẽ là phải giành bao nhiêu thời gian và địa điểm để tập và học Pháp Luân Đại Pháp. Tuy nhiên, chúng tôi có một gợi ý như thế này. Hàng ngày tập các bài động tác vào lúc bình minh trước lúc đi làm. Chọn địa điểm thoáng đãng ngoài trời, như công viên chẳng hạn. Nếu quý vị định dành một tiếng đồng hồ để tập, thì tập bài một 3 lần, rồi tập các bài hai, bài ba, bài bốn, bài năm mỗi bài một lần. Bài năm (ngồi thiền) tập trong 30 phút, bài hai tập trong 20 phút. Buổi chiều muộn đọc sách Chuyển Pháp Luân, tuỳ theo thời gian cho phép, có thể đọc nửa bài giảng, một bài giảng, v.v. Tất nhiên, quý vị có thể tuỳ theo hoàn cảnh của mình mà thu xếp thời gian, ví dụ một người tập lâu năm có thể tập bài năm (ngồi thiền) đến 1, hoặc 2 tiếng, hoặc lâu hơn nữa, và tập bài này vào đêm. Còn đối với việc đọc cuốn Chuyển Pháp Luân, quý vị nên tranh thủ tối đa thời gian để đọc. Một điểm nữa cần lưu ý: tu luyện Pháp Luân Đại Pháp không ảnh hưởng đến công tác tại xã hội. Học viên trước hết phải làm người tốt ngoài xã hội, trong đó bao gồm cả hoàn thành tốt công tác của mình.

2. Đến học ở điểm luyện công

Các học viên Pháp Luân Đại Pháp đã tự hình thành rất nhiều điểm luyện công tại các địa điểm công cộng, như công viên, trường đại học, bệnh viện, v.v. Quý vị hãy đến một trong các điểm luyện công mà mình cảm thấy thuận tiện nhất. Tất cả các hướng dẫn và thông tin chỉ dẫn tại các điểm luyện công đều miễn phí.

3. Nhờ một học viên khác hướng dẫn

Nói chung các học viên Pháp Luân Đại Pháp đều sẵn sàng và rất vui lòng hướng dẫn miễn phí cho những ai có nguyện vọng học Pháp Luân Đại Pháp. Quý vị có thể liên lạc với một trong những liên lạc viên người Việt Nam cũng như người nước ngoài mà quý vị thấy thuận tiện.
 
Đồ hình Pháp Luân

(Trích từ Bài giảng thứ Năm, cuốn Chuyển Pháp Luân)

Ký hiệu của Pháp Luân Đại Pháp chúng ta là Pháp Luân. Người có công năng, có thể nhìn thấy Pháp Luân này đang xoay chuyển. Chiếc huy hiệu nhỏ Pháp Luân này cũng lại như thế, nó đang xoay chuyển. Chúng ta chiểu theo đặc tính Chân Thiện Nhẫn của vũ trụ, để chỉ đạo sự tu luyện của mình, chiểu theo nguyên lý diễn hoá của vũ trụ mà luyện; do đó công mà chúng ta luyện được cũng rất lớn. Theo một ý nghĩa nào đó mà giảng, đồ hình Pháp Luân này là hình ảnh thu nhỏ của vũ trụ. Phật gia coi thế giới mười phương như một khái niệm về vũ trụ, bốn mặt tám phương, tám phương vị; có thể có người có thể nhìn thấy tồn tại trên dưới của nó (Pháp Luân) một công trụ, như vậy với trên dưới được thêm vào thì nó chính là thế giới mười phương, cấu thành nên vũ trụ này, đại diện cho vũ trụ nói chung mà Phật gia nhìn nhận.

Tất nhiên trong vũ trụ này có vô số thiên hà, bao gồm cả hệ Ngân Hà của chúng ta trong đó. Toàn bộ vũ trụ đang vận động, tất cả các thiên hà trong toàn bộ vũ trụ cũng đang vận động; do đó các thái cực và phù hiệu chữ (chữ vạn) nhỏ ở trong đồ hình này cũng đang xoay chuyển, toàn bộ Pháp Luân cũng đang xoay chuyển, hơn nữa phù hiệu chữ lớn ở giữa cũng đang xoay chuyển. Theo một ý nghĩa nào đó mà giảng, nó tượng trưng cho hệ Ngân Hà của chúng ta; đồng thời vì chúng ta là Phật gia, nên trung tâm là phù hiệu của Phật gia; nhìn bên ngoài là như vậy. Tất cả các vật chất khác nhau đều có hình thức tồn tại ở các không gian khác, tại các không gian khác đều có hình thức tồn tại và một quá trình diễn hoá cực kỳ phong phú và cực kỳ phức tạp. Đồ hình Pháp Luân này là hình ảnh thu nhỏ của vũ trụ, tại từng không gian khác nó cũng có hình thức tồn tại và quá trình diễn hoá của mình, vậy nên tôi gọi là một thế giới.

Khi xoay chuyển theo chiều kim đồng hồ thì Pháp Luân có thể tự động hấp thụ năng lượng vũ trụ; khi xoay chuyển ngược chiều kim đồng hồ thì nó có thể phát phóng năng lượng. Xoáy vào (thuận chiều kim đồng hồ) độ bản thân, xoáy ra (ngược chiều kim đồng hồ) độ nhân; đó là một đặc điểm của công pháp chúng ta. Có người nói: "Chúng ta là Phật gia, vì sao còn có thái cực? Thái cực ấy phải chăng là Đạo gia?" Bởi vì công của chúng ta luyện được rất lớn; điều luyện được tương đương với vũ trụ hoàn chỉnh. Như vậy mọi người thử nghĩ xem, trong vũ trụ này có hai "gia" lớn là Phật gia và Đạo gia, loại trừ đi bất kỳ "gia" nào cũng không cấu thành nên vũ trụ hoàn chỉnh được, không thể nói là vũ trụ hoàn chỉnh được; do đó chúng ta ở đây cũng có những điều trong Đạo gia. Có người giảng: "Nhưng không phải chỉ có Đạo gia, còn có những môn như Cơ Đốc giáo, Nho giáo, và những môn khác như thế nữa". Tôi nói với chư vị rằng, Nho giáo khi tu luyện đến tầng cực cao, nó quy về Đạo gia; còn ở phương tây có rất nhiều tôn giáo sau khi tu lên cao tầng, chúng quy về Phật gia, chúng thuộc về cùng một thể hệ bên Phật gia. Đó là hai thể hệ lớn.

Vậy tại sao thái cực đồ vừa có hai cái trên đỏ dưới xanh lam, vừa có hai cái trên đỏ dưới đen? Theo chỗ hiểu thông thường của chúng ta, thái cực là do hai chủng vật chất đen và trắng cấu thành, ấy là khí âm và khí dương. Đó là nhận thức đứng tại tầng rất nông mà xét; tại các không gian khác nhau có các hiển thị tại không gian khác nhau. Hiển thị tại tầng cao nhất, thì mầu sắc của nó chính là như thế. Đạo gia mà chúng ta vẫn thường biết đến chính là có thái cực đồ có mầu sắc trên đỏ dưới đen. Tôi lấy một thí dụ, một số người trong chúng ta đã khai thiên mục, phát hiện rằng dùng mắt nhìn thì thấy vật mầu đỏ, nhưng tại không gian chỉ sai khác một tầng mà nhìn thì nó là mầu xanh lục. Cái vật mầu vàng kim này ở trong không gian khác lại thấy là mầu tím; nó có sự tương phản sai biệt như thế; tức là mầu sắc tại các không gian khác nhau cũng có sự thay đổi khác nhau. Thái cực trên đỏ dưới xanh lam là thuộc về Tiên Thiên Đại Đạo, bao gồm pháp môn tu luyện Kỳ Môn. Phù hiệu chữ tại bốn bên mặt là Phật gia; chúng giống với phù hiệu ở giữa; đều là Phật gia. Mầu sắc của Pháp Luân này trông tất tươi sáng, chúng tôi lấy nó làm ký hiệu của Pháp Luân Đại Pháp.

Mọi người chúng ta thông qua thiên mục nhìn thấy Pháp Luân này không nhất định có mầu sắc như vậy; mầu nền này thay đổi, nhưng mẫu hình không thay đổi. Khi Pháp Luân mà tôi cấp cho chư vị ở vị trí bụng dưới đang xoay chuyển, thiên mục của chư vị nhìn được nó, có thể là đỏ, có thể là tím, có thể là xanh lục; cũng có thể là vô sắc. Đỏ da-cam vàng lục lục-lam lam tím, mầu nền của nó không ngừng đổi mầu như thế; do đó điều chư vị nhìn thấy được có thể có các mầu sắc khác; tuy nhiên mầu sắc của mẫu hình phù hiệu chữ và thái cực ở bên trong không thay đổi. Chúng tôi nhận thấy màu nền này của mẫu hình rất đẹp mắt, nên chúng tôi lấy nó cố định lại như thế. Người có công năng có thể thấu qua tầng không gian này mà thấy được rất nhiều điều.

Có người nói: "Phù hiệu chữ này trông rất giống như thứ của Hitler". Tôi nói với mọi người rằng phù hiệu này bản thân nó không có khái niệm giai cấp nào hết. Có người nói: "Nếu góc này mà quay hướng nghiêng phía kia thì đúng là thứ của Hitler". Không phải như thế, nó xuay chuyển cả hai phía. Xã hội nhân loại chúng ta đã biết đến mẫu hình này một cách rộng rãi từ 2500 năm trước đây, từ thời đại Thích Ca Mâu Ni đã biết đến nó. Hitler là vào thời Chiến tranh thế giới lần thứ hai tính đến nay mới có mấy chục năm; ông ta đã trộm lấy nó để dùng. Tuy nhiên mầu sắc của nó khác với của chúng ta; nó mầu đen; hơn nữa nó hướng đầu nhọn lên trên, để đứng, dùng đứng như thế. Về Pháp Luân này tôi chỉ giảng đến đây thôi, chúng tôi chỉ giảng đến hình thức bên ngoài của nó thôi.

Vậy phù hiệu chữ trong Phật gia chúng ta biểu thị điều gì? Có người nói là cát tường như ý (điềm lành); đó là cách giải thích ở người thường. Tôi nói với chư vị rằng, phù hiệu chữ là tiêu chí của tầng các Phật; chỉ đạt đến tầng của Phật mới có. Bồ Tát, La Hán không có; tuy nhiên Đại Bồ Tát, tứ Đại Bồ Tát đều có. Chúng tôi thấy rằng những Đại Bồ Tát này đã vượt xa khỏi tầng của Phật thông thường, thậm chí cao hơn Như Lai rất nhiều. Các Phật vượt quá tầng Như Lai có vô số không đếm được. Như Lai chỉ có một phù hiệu chữ , đạt đến tầng Như Lai trở lên, phù hiệu chữ sẽ xuất hiện nhiều. Vượt gấp đôi Như Lai thì có 2 phù hiệu chữ . Vượt lên nữa sẽ có 3 chữ, 4 chữ, 5 chữ, v.v. đầy khắp thân cũng có. Trên đầu, hai đầu vai, đầu gối đều sẽ xuất hiện; khi nhiều quá thì cả các chỗ như lòng bàn tay, ngón tay, gan bàn chân, ngón chân đều sẽ xuất hiện các chữ ấy. Tuỳ theo tầng không ngừng nâng cao, các phù hiệu chữ sẽ không ngừng tăng thêm nhiều; do vậy phù hiệu chữ là biểu hiện cho tầng của Phật; tầng của Phật càng cao thì phù hiệu chữ càng nhiều.
 
Pháp Luân Công công pháp

Pháp Luân Công là một pháp môn tu luyện Phật gia đặc thù. Trong đó có những nét độc đáo khác với các phương pháp tu luyện Phật gia thông thường khác. Bởi vì công pháp này là Đại Pháp tu luyện thượng thừa, trong quá khứ nó là pháp tu luyện yêu cầu người có tâm tính cực cao hoặc học viên đại căn cơ, do vậy không dễ phổ cập. Tuy nhiên để có nhiều người luyện công hơn nữa đạt đến cao tầng, hiểu rõ được pháp môn, đồng thời đáp ứng mong mỏi của quảng đại những người có chí tu luyện, do vậy [tôi] đã chỉnh lý thành một bộ thích hợp cho việc phổ cập cho công chúng. Tuy thế nó vẫn vượt xa rất rất nhiều so với các công pháp thông thường khác về những điều giảng dạy và về tầng.

Người học Pháp Luân Công không những rất mau chóng tăng trưởng công lực và công năng, mà trong một thời trong một thời gian ngắn có được một Pháp Luân uy lực không gì sánh được. Sau khi hình thành, Pháp Luân ở tại vị trí bụng dưới tự xoay chuyển không ngừng; liên tục từ vũ trụ thu thập và diễn hoá năng lượng, cuối cùng ở trong bản thể của người tu luyện chuyển hoá thành công. Như thế đạt được mục đích "Pháp luyện người".

Công pháp này có năm bộ động tác tất cả: Phật triển thiên thủ Pháp {bài Phật mở nghìn tay}, Pháp Luân trang Pháp {bài Pháp Luân đứng}, Quán thông lưỡng cực Pháp {bài thông suốt hai cực}, Pháp Luân châu thiên Pháp {bài Pháp Luân châu thiên}, và Thần thông gia trì Pháp {bài gia trì thần thông}.
 
Bài 1: Phật triển thiên thủ Pháp
{bài Phật mở nghìn tay}

Công lý: Cốt lõi của bài "Phật triển thiên thủ Pháp" là chùng [và] căng, làm trăm mạch đều thông. Đối với người mới học khí công mà xét, thì thông qua luyện công [này] có thể đắc khí rất mau; đối với người đã từng luyện công mà xét, thì có thể mau chóng nâng cao. Bộ công pháp này ngay lập tức yêu cầu trăm mạch đều thông, để người luyện công đứng ngay tại tầng rất cao mà luyện. Động tác của công pháp này tương đối đơn giản, bởi vì Đại Đạo là chí giản chí dị {vô cùng giản dị}; động tác tuy đơn giản, nhưng từ mức nhìn rộng mà xét thì nó khống chế toàn bộ công pháp những thứ cần luyện xuất được. Khi học luyện công này, thì cảm giác thấy thân thể phát nhiệt, cảm thụ một cách đặc thù được trường năng lượng rất mạnh mẽ, bởi vì [nó] triển khai và khơi thông những thông đạo khí của toàn cơ thể. Mục đích là đả thông những chỗ khí bị tắc nghẽn, thông suốt không ngăn, điều động khí vận động mạnh nóng bên trong [thân] thể và dưới da, hô hấp lớn mạnh những năng lượng trong vũ trụ; đồng thời đưa người luyện công nhanh chóng tiến nhập vào trạng thái ở trong trường năng lượng khí công. Công pháp này đóng vai trò công pháp luyện cơ sở của Pháp Luân Công; mỗi khi luyện công, thông thường luyện công pháp này trước tiên; nó là một phương pháp tăng cường tu luyện.

Quyết : Thân thần hợp nhất, động tĩnh tuỳ cơ; Đỉnh thiên độc tôn, thiên thủ Phật lập.

Thế dự bị: Toàn thân thả lỏng, lỏng nhưng không oải; bàn chân cách rộng bằng vai, đứng thẳng tự nhiên; hai chân cong một chút, đầu gối và đùi ở trạng thái [hơi] khuỵ; cằm hơi thu vào, lưỡi chạm hàm trên, hai hàm răng hơi cách nhau chút xíu, môi đóng kín, hai mắt nhắm khẽ, mang theo [ý] niệm giữ nét mặt hoà nhã. Trong khi luyện công sẽ cảm giác bản thân mình rất cao lớn.

Lưỡng thủ kết-ấn {hai tay ở thế kết-ấn}: Hai tạy nâng lên, lòng bàn tay hướng lên trên, hai đầu ngón tay cái tiếp xúc nhẹ vào nhau, bốn ngón tay kia xếp chồng lên nhau; nam tay trái ở trên, nữ tay phải ở trên, tạo thành hình bầu dục; đặt ở chỗ bụng dưới; để hai bắp tay hơi hướng về phía trước, hai cùi trỏ hướng lên, sao cho chỗ nách có khoảng trống (như hình 1-1).

Di lặc thân yêu {Di Lặc duỗi lưng}: Từ khởi thế là kết-ấn, hay tay kết-ấn nâng lên; thuận theo tay dâng lên, hai chân cũng dần dần duỗi ra; đến lúc hay tay nâng đến ngang đầu thì kết-ấn dần dần mở ra, bàn tay dần dần xoay chuyển hướng lên trên; khi lên đến đỉnh đầu, thì lòng bàn tay hướng lên trên; mười ngón tay chỉ vào nhau, đầu ngón tay cách nhau 20-25cm (như hình 1-2). Đồng thời lúc ấy đầu dựng [thẳng] lên, hai chân dẫm xuống, thân thể thẳng tắp; dùng lực ở hai chưởng căn [ii] ấn lên; toàn thân dần dần căng thẳng; căng chừng 2-3 giây; rồi toàn thân lập tức thả lỏng, đặc biệt là đầu gối và chân trở về trạng thái thả lỏng.

Như Lai quán đỉnh {Như Lai tưới vào đầu}: Làm tiếp theo động tác trên, hai tay đồng thời xoay bàn tay ra ngoài 140 độ, hai tay tạo thành "hình cái phễu"; cổ tay lỏng bàn đưa bàn tay xuống (như hình 1-3). Hay bàn tay xuống đến ngực thì tay cách ngực khoảng 10cm; tiếp tục vận động hạ xuống đến vị trí bụng dưới (như hình 1-4).

Song thủ hợp-thập {hai tay ở thế hợp-thập}: Hai tay ở vị trí bụng dưới, lập tức nâng lên trước ngực làm thế "hợp-thập" (như hình 1-5). Khi hợp-thập thì ngón tay gắn chặt ngón tay, chưởng căn gắn chặt chưởng căn, có khoảng trống giữa lòng bàn tay, hai cùi trỏ hướng lên, hai cánh tay dưới tạo thành một đường thẳng (ngoại trừ thế "hợp-thập" và "kết-ấn" ra, đều [để bàn tay] ở thế "liên-hoa chưởng" [iii], [các động tác khác] dưới đây cũng như thế).

Chưởng chỉ càn khôn {bàn tay chỉ trời đất}: Từ khởi thế là "hợp-thập", hai bàn tay tách ra, cách nhau khoảng 2-3cm, đồng thời bắt đầu xuay bàn tay, nam tay trái ở trên (nữ tay phải ở trên); hướng chỗ ngực xoay chuyển, tay phải xoáy ra ngoài ngực, sao cho tay trái ở trên, tay phải ở dưới, và cánh tay tạo thành hình chữ "nhất" (như hình 1-6). Tiếp đó cánh tay trái triển khai sang bên trái nghiêng lên trên, lòng bàn tay hướng xuống dưới, bàn tay cao bằng đầu; tay phải vẫn ở trước ngực, lòng bàn tay hướng lên trên; thuận theo tay trái dần dần đạt đến vị trí, thì toàn thân cũng dần dần duỗi thẳng, đầu dựng [thẳng] lên, hai chân dẫm xuống; tay trái duỗi thẳng sang trái nghiêng lên trên; tay phải ở trước ngực, bắp tay duỗi ra ngoài (như hình 1-7). Duỗi căng trong khoảng 2-3 giây, rồi lập tức thả lỏng toàn thân; tay trái lại thu về trước ngực cùng với tay phải tạo thành thế "hơp-thập". Sau đó lại xoay chuyển bàn tay, tay phải (nữ là tay trái) ở trên, tay trái ở dưới (như hình 1-8). Tay phải lặp lại động tác của tay trái lúc trước; cánh tay phải triển khai sang bên phải nghiêng lên trên, lòng bàn tay hướng xuống, tay cao bằng đầu; tay trái vẫn ở trước ngực, lòng bàn tay hướng lên trên. Sau khi duỗi căng (như hình 1-9), toàn thân lập tức thả lỏng. [Rồi] sau khi hai tay thu về ở trước ngực [tạo thành] "hợp-thập" (như hình 1-5).

Kim hầu phân thân {khỉ vàng phân thân}: Từ khởi thế "hợp-thập"; hai tay tách ra duỗi sang hai bên, cùng với vai tạo thành hình chữ "nhất"; toàn thân dần dần duỗi thẳng ra, đầu dựng [thẳng] lên, chân dậm xuống đất; dụng lực vào hai tay ở hai bên, lực tách làm bốn (như hình 1-10). Duỗi căng trong 2-3 giây, [rồi] toàn thân lập tức thả lỏng; hai tay thu hồi "hợp-thập" trước ngực.

Song long hạ hải {hai rồng xuống biển}: Từ khởi thế "hợp-thập", hai tách ra hướng về đằng trước duỗi xuống dưới, hay tay song song, duỗi thẳng ra, tạo với bắp chân một góc 30 độ (như hình 1-11). Toàn thân dần dần duỗi căng thẳng ra, đầu dựng [thẳng] lên, chân dẫm xuống dưới; căng thẳng trong khoảng 2-3 giây, [rồi] toàn thân lập tức thả lỏng; tay lại thu về, "hợp-thập" trước ngực.

Bồ Tát phù liên {Bồ Tát dìu sen}: Từ khở thế "hợp-thập", sang hai bên thân thể và nghiêng xuống dưới duỗi ra; khi tay sang hai bên rồi, thì cánh tay cũng thẳng ra tạo với hai bên phải trái của thân thể góc 30 độ (như hình 1-12). Lúc này, toàn thân dần dần căng thẳng, ngón tay dụng lực hướng xuống dưới; sau đó toàn thân lập tức thả lỏng, hai tay thu về hợp thập trước ngực.

La Hán bối sơn {La Hán vác núi}: Từ khởi thế "hợp-thập", hai tay tách ra, duỗi về phía sau thân thể, đồng thời lòng bàn tay xoay hướng về phía sau; khi tay đến bên thân thì dần dần xoay móc cổ tay lên; cổ tay quá về sau thân thể, cổ tay tạo thành góc 45 độ (như hình 1-13). Toàn thân dần dẫn duỗi căng thẳng; sau khi tay đến vị trí, thì đầu dựng [thẳng] lên, hai chân đạp xuống, thân thể rất thẳng; duỗi thẳng trong 2-3 giây; [rồi] toàn thân lập tức thả lỏng. Lại thu tay về, trở lại "hợp-thập" trước ngực.

Kim cương bài sơn {Kim Cương đẩy núi}: Từ khởi thế "hợp-thập", hai tay tách ra, hướng về phía trước [như là] đẩy núi, ngón tay chỉ lên trên; cánh tay cao bằng vai, khi cánh tay duỗi xong, dùng lực căng thẳng ra, đầu dựng [thẳng] lên, hai chân dẫm xuống, thân thể thẳng tắp (như hình 1-14). Căng duỗi trong 2-3 giây, [rồi] toàn thân lập tức thả lỏng, hai tay thu về "hợp-thập" trước ngực.

Diệp khấu tiểu phúc {xếp vào bụng dưới}: Từ khởi thế "hợp-thập", hai tay từ tốn đưa xuống, lòng bàn tay chuyển hướng vào bụng; khi tay xuống đến chỗ bụng dưới thì hai bàn tay chồng trùng vào nhau, nam tay trái để trong, nữ tay phải để trong, lòng bàn tay này hướng vào mu bàn tay kia. Khoảng cách giữa hai tay và khoảng cách giữa tay và bụng dưới là 3cm, thời gian xếp chồng là 40-100 giây (như hình 1-15). Thu thế: lưỡng thủ kết ấn.

-------------------------------------------------------------------------------

Chú thích của người dịch

Quyết: khẩu quyết, nhẩm đọc một lần trước khi tập.

[ii] Chưởng căn: chỗ gốc của bàn tay.

[iii] Liên hoa chưởng - bàn tay sen: tức là bàn tay để xuôi ra với ngón giữa hơi nhíu vào trong một chút, hãy quan sát các hình ảnh thật kỹ.
 
Bài 2: Pháp Luân trang Pháp
{bài Pháp Luân đứng}

Công lý: Công pháp này là bộ công pháp thứ hai của Pháp Luân Công, [nó] thuộc về tĩnh trang pháp {bài đứng tĩnh}. [Nó] có tất cả bốn động tác bão luân {ôm bánh xe} tạo thành; các động tác này tương đối đơn điệu; tuy nhiên mỗi động tác lại yêu cầu luyện trong thời gian rất lâu. Người mới học trạm trang, khi bắt đầu học sẽ thấy bắp tay rất nặng, rất đau; nhưng khi luyện xong lại cảm giác thấy thân thể nhẹ nhàng, không có cảm giác [của sự] mệt mỏi sau khi làm việc. Tuỳ theo thời gian [luyện] nâng lên, và số lần luyện công tăng lên, thì ở chỗ hai bắp tay sẽ xuất hiện [cảm giác] "Pháp Luân" đang xoay chuyển. Thường xuyên luyện Pháp Luân trang Pháp có thể làm toàn thân toàn bộ thông suốt, gia tăng công lực. "Pháp Luân trang Pháp" thuộc về phương pháp tăng huệ, nâng cao tầng, gia trì thần thông; công tuy đơn giản, nhưng những thứ luyện ra được rất nhiều, rất toàn diện. Động tác của công pháp này cần tự nhiên; bản thân mình cần phải biết mình đang luyện công, không được lắc động; [tuy nhiên] có động chút ít thì bình thường. Công pháp này cũng giống những công pháp khác của Pháp Luân Công, luyện xong không thu công; bởi vì Pháp Luân thường chuyển không thể thu dừng; yêu cầu thời gian luyện mỗi động tác là tuỳ vào người [tập], càng lâu càng tốt.

Quyết: Sinh huệ tăng lực, dung tâm khinh thể; Tự diệu tự ngộ, Pháp Luân sơ khởi.

Thế dự bị: Toàn thân thả lỏng, lỏng nhưng không oải, bàn chân cách rộng bằng vai, đứng thẳng tự nhiên, hai chân hơi chùng xuống, đầu gối và đùi ở trạng thái hơi khuỵ; cằm dưới hơi thu vào, lưỡi chạm hàm trên, hai hàm răng hơi cách nhau một chút, môi ngậm kín, hai mắt nhắm khẽ; mang [ý] niệm giữ nét mặt hoà nhã, lưỡng thủ kết ấn (như hình 2-1).

Đầu tiền bão luân {ôm bánh xe trước đầu}: Từ khởi thế kết-ấn, hai tay từ trước bụng từ từ dâng lên, [đồng thời] theo đó mà mở kết-ấn ra. Đến khi hai tay nâng đến trước đầu, thì lòng bàn tay hướng vào mặt, cao độ bằng lông mày; mười ngón tay chỉ vào nhau, cự ly của đầu các ngón tay khoảng 15cm; hai cánh tay ôm [thành] hình tròn, toàn thân thả lỏng (như hình 2-2).

Phúc tiền bão luân {ôm bánh xe trước bụng}: Hai tay từ trạng thái "đầu tiền bão luân" từ từ hạ dần xuống, không thay đổi tư thế, hạ xuống đến vị trí bụng dưới, tay cách bụng dưới khoảng 10cm, hai cùi trỏ hướng lên, chỗ nách có khoảng trống, lòng bàn tay ngửa lên; mười ngón tay chỉ vào nhau, khoảng cách giữa các ngón tay khoảng 10cm, hai cánh tay ôm hình tròn (như hình 2-3).

Đầu đỉnh bão luân {ôm bánh xe trên đỉnh đầu}: Từ khởi thế "phúc tiền bão luân", tư thế không đổi, hai tay dần dần nâng lên đến đỉnh đầu; làm đầu đỉnh bão luân. Mười ngón tay chỉ vào nhau, lòng bàn tay hướng xuống dưới, khoảng cách các ngón tay là 20-30cm. Hai cánh tay bao thành hình tròn; vai, bắp tay, cùi trỏ, cổ tay đều hoàn toàn thả lỏng (như hình 2-4).

Lưỡng trắc bão luân {ôm bánh xe hai bên}: Từ thế "đầu đỉnh bão luân" hai tay hạ xuống, sang hai bên đầu; lòng bàn tay hướng vào hai tai; hai vai buông lỏng; cánh tay dưới để dựng đứng; khoảng cách giữa tay và tai không được gần quá (như hình 2-5).

Diệp khấu tiểu phúc {xếp vào bụng dưới}: Từ thế "lưỡng trắc bão luân" hai tay hạ xuống; hạ xuống đến chỗ bụng dưới và xếp chồng lên nhau (hình 2-6). [Sau đó] thu về thế lưỡng thủ kết ấn.
 
Bài 3: Quán thông lưỡng cực Pháp
{bài thông suốt hai cực}
Công lý: Công pháp này là để quán thông khí của vũ trụ với khí ở trong thân thể; thổ nạp {vào ra} một lượng lớn; cho phép người tu luyện trong một thời gian ngắn, có thể bài xuất khỏi thân thể những khí bệnh, khí đen, rồi lấy vào đó một lượng lớn khí vũ trụ, tịnh hoá thân thể; mau chóng đến được trạng thái "tịnh bạch thể" {thân tịnh trắng}. Ngoài ra công này trong khi xung quán {tưới mạnh vào} có thể "khai đỉnh", và cũng trong khi xung quán có thể đả khai đường thông đạo ở dưới chân.
Trước khi luyện công niệm nghĩ một chút rằng bản thân như hai cái thùng rỗng rất cao lớn, đỉnh thiên lập địa {đứng ở đất đỉnh chạm trời}, cao lớn không gì sánh được. Khí bên trong thân thể vận động tuỳ theo tay lên xuống; [khi] xông ra khỏi đỉnh [đầu], đạt cho đến chỗ cao nhất của vũ trụ; còn khí xông xuống thì từ chân xông xuống, xông đến tận chỗ thấp nhất của vũ trụ. Sau đó tuỳ theo tay vận động, khí ở hai cực phản hồi vào trong thân thể, rồi lại phóng xuất ra; đi lại tất cả chín lần. Vào lần tưới thứ chín, thì tay trái (nữ là tay phải) ở cực trên đợi tay phải (nữ là tay trái) đi lên. Sau đó hai tay đồng thời thâu hồi quán nhập xuống cực phía dưới, sau đó lại xung quán hướng lên trên thân thể; lặp lại như thế tất cả chín lần, và thu hồi về. Sau khi thu hồi, ở bên ngoài chỗ bụng dưới xoay chuyển Pháp Luân theo chiều kim đồng hồ {đứng từ trước mặt nhìn vào} xoay chuyển khí ở phía ngoài hồi về cơ thể; sau đó kết định-ấn; luyện xong thu thế không thu công.
Quyết: Tịnh hoá bản thể, Pháp khai đỉnh để; Tâm từ ý mãnh, thông thiên triệt địa.
Thế dự bị: Toàn thân thả lỏng, lỏng nhưng không oải, bàn chân cách bằng vai, đứng thẳng tự nhiên, hai chân hơi cong chùng, đầu gối và đùi ở trạng thái buông khuỵ chút xíu; cằm dưới hơi thu vào một chút, lưỡi chạm hàm trên, hai hàm răng hơi hé chút xíu; miệng ngậm kín, mắt nhắm khẽ; mang theo [ý] niệm khuôn mặt hoà nhã. Lưỡng thủ kết-ấn, [rồi] hợp-thập (như hình 3-1 và 3-2).
Đơn thủ xung quán {xung quán từng tay}: Từ khởi thế hợp-thập, làm động tác tay xung lên quán {tưới} xuống, tay thuận theo khí cơ bên ngoài thân thể mà từ từ chuyển động; khí bên trong cơ thể cùng thuận theo tay mà chuyển động lên xuống. Nam tay trái lên trước (như hình 3-3), nữ tay phải lên trước. Tay từ chỗ bên cạnh đầu dần dần xung lên, vượt hết đỉnh đầu, đồng thời tay phải (nữ là tay trái) cũng từ từ quán hạ xuống. Sau đó luân phiên lặp đi lặp lại (như hình 3-4). Hai lòng bàn tay đều hướng vào thân thể, giữ khoảng cách với thân thể ở cự ly 10cm. Khi thực hiện, toàn thân cần thả lỏng; [mỗi] tay lên rồi xuống tính là một lần, xung quán tổng cộng chín lần.

Song thủ xung quán {xung quán hai tay}: Khi đơn thủ xung quán đến lần thứ chín, khi để tay trái (nữ là tay phải) ở bên trên, thì đưa tay kia lên, nghĩa là, hai tay cùng ở vị trí xung lên ở trên (như hình 3-5). Sau đó hai tay đồng thời xung quán xuống dưới (như hình 3-6). Khi lưỡng thủ xung quán, lòng bàn tay hướng vào thân thể, cách thân thể khoảng 10cm; tay đưa lên rồi xuống tính là một lần, cộng làm chín lần xung quán.

Song thủ suy động Pháp Luân {hai tay đẩy Pháp Luân chuyển động}: Sau khi hoàn thành lần thứ chín, hai tay đã đang ở trên quá đầu, rồi hạ xuống qua đầu, ngực, cho đến chỗ bụng dưới, hạ liền cho đến chỗ bụng dưới. Tại chỗ bụng dưới này đẩy chuyển Pháp Luân (như hình 3-7, 3-8, và 3-9). Nam để tay trái ở trong, nữ để tay phải ở trong. Cự ly giữa hai tay, cự ly giữa tay và bụng dưới ước lượng là 4cm, thuận theo chiều kim đồng hồ {nhìn từ phía trước vào} xoay chuyển Pháp Luân bốn lần, để năng lượng bên ngoài thân xoáy hồi vào trong thân. Khi xoay Pháp Luân hai tay cần phải [chuyển động] trong phạm vi bụng dưới.

Lưỡng thủ kết ấn {hai tay kết ấn}: (như hình 3-10).
 
Bài 4: Pháp Luân châu thiên Pháp
{bài Pháp Luân châu thiên}

Công lý: Công pháp này làm cho năng lượng trong thân thể con người lưu động trên một điện rộng; không phải chạy một mạch hay một vài mạch, mà là toàn diện phía âm thân thể tuần hoàn đến phía dương, rồi lại quay lại không ngừng; [nó] vượt hơn hẳn các [phương] pháp thông mạch thông thường, hoặc tiểu châu thiên, đại châu thiên. Công pháp này thuộc về công pháp trung tầng của Pháp Luân Công. Trên cơ sở ba bộ công pháp bên trên, thông qua việc luyện công pháp này có thể đả khai rất mau lẹ các mạch khí ở toàn thân (gồm cả đại châu thiên), do từ trên xuống dưới thông khắp toàn thân. Đặc điểm lớn nhất của công pháp này là dùng sự xoay chuyển của "Pháp Luân" để chỉnh lại những trạng thái chưa đúng đắn ở thân thể, đưa thân thể con người - tiểu vũ trụ - quy về trạng thái sơ thuỷ ban đầu, làm cho các mạch khí toàn thân thông suốt vô ngại. Khi luyện đến trạng thái này, trong tu luyện tại thế-gian-pháp đã đạt đến tầng rất cao, người đại căn khí có thể tiến nhập vào tu luyện Đại Pháp. Lúc ấy, công năng và thần thông đều tăng mạnh. Khi luyện, tay chuyển động thuận theo khí cơ, động tác cần hoãn-mạn-viên {thong thả - từ tốn - tròn trịa}.
Quyết: Toàn Pháp chí hư, tâm thanh tự ngọc; Phản bổn quy chân, du du tự khởi.
Thế dự bị: Toàn thân thả lỏng, lỏng nhưng không oải, bàn chân cách nhau bằng vai, đứng thẳng tự nhiên, hai chân hơi cong chùng, đầu gối và đùi ở trạng thái hơi khuỵ một chút; cằm dưới hơi thu vào, lưỡi chạm hàm trên, hai hàm răng cách nhau một tí, miệng ngậm kín, hai mắt nhắm khẽ, mang niệm nét mặt hoà nhã.
Lưỡng thủ kết-ấn, [xong rồi] hợp-thập (như hình 4-1 và 4-2).

Hai tay vừa tách khỏi trạng thái "hợp-thập", vừa đưa xuống phía bụng dưới, đồng thời xoay hai bàn tay để lòng bàn tay hướng vào thân thể. Cựu ly giữa tay và thân thể khoảng 10cm; qua chỗ bụng dưới rồi duỗi tiếp xuống chỗ trong hai chân, thuận theo mặt trong chân mà đi xuống, đồng thời cong lưng ngồi xổm xuống (như hình 4-3). Khi ngón tay gần tiếp mặt đất, thì tay từ đầu chân, sang bên mép ngoài bàn chân, vòng một vạch đến tận bên ngoài gót chân (như hình 4-4).
Sau đó hai cổ tay hơi cong một chút , dần dần men theo bên ngoài, đằng sau bắp chân nần dần lên (hình 4-5).

Vừ nâng hai tay lên ở đằng lưng, vừa thẳng lưng ra (như hình 4-6).
Trong toàn bộ Pháp Luân châu thiên Pháp, hai tay không được chạm vào bất kể chỗ nào trên thân thể, nếu không năng lượng ở trên hai tay sẽ quay trở về thân thể. Khi hai tay đến chỗ không thể nâng lên được nữa, thì làm một nắm tay rỗng (như hình 4-7). Từ chỗ nách đưa ra bắt chéo hai tay trước ngực (không có yêu cầu đặc biệt tay nào trên tay nào dưới, tuỳ theo thói quen, không phân biệt nam nữ) (như hình 4-8). Buông mở hai nắm tay, hai bàn tay ở trên vai (có cách ra). Kéo sát theo phía dương (bên ngoài) của cánh tay trên và cánh tay dưới, cho đến chỗ cổ tay, để hai lòng bàn tay xoay mặt vào nhau, sao cho ngón cái tay bên ngoài xoay chỉ lên trên, ngón cái tay bên trong xoay chỉ xuống dưới; cự ly hai bàn tay khoảng 3-4cm; lúc này hai tay tạo thành hình chữ "nhất" (như hình 4-9).

Hai bàn tay xoay như nâng quả cầu, tay ở trong xoay ra ngoài, tay ngoài xoay vào trong. Sau đó vừa hai tay đẩy dọc theo phía âm (mặt trong) của cánh tay dưới và cánh tay trên, vừa đưa hai tay qua đầu (như hình 4-10). Hai tay qua đầu xong; hai tay ở trạng thái chéo nhau; tiếp tục chuyển động về phía xương sống (như hình 4-11). Hai tay tách khỏi [trạng thái] chéo nhau, ngón tay chỉ xuống dưới và tiếp [nối] với năng lượng đằng lưng; lại chuyển động hai tay một cách song song vòng qua đầu đến trước ngực (như hình 4-12).

Như thế là một [lần] tuần hoàn châu thiên, [thực hiện] tổng cộng chín lần. Hoàn thành chín lần xong, đưa tay xuống chỗ bụng dưới.
Diệp khấu tiểu phục (như hình 4-13), [rồi] lưỡng thủ kết ấn (như hình 4-14).
 
Bài 5: Thần thông gia trì Pháp
{bài gia trì thần thông}

Công lý: "Thần thông gia trì Pháp" thuộc về pháp tu luyện tĩnh công của Pháp Luân Công, là pháp luyện công đa mục đích sử dụng các "Phật" thủ ấn để chuyển "Pháp Luân" gia trì thần thông (gồm cả công năng) và công lực. Pháp này thuộc về công Pháp từ trung tầng trở lên, nguyên là pháp bí luyện {bí mật}. Để đáp ứng yêu cầu của những người [luyện công] đã có cơ sở nhất định, [tôi] đặc cách truyền xuất công pháp này ra, để chuyên độ những người có duyên. Công pháp này yêu cầu luyện trong khi bàn toạ, tốt nhất là song bàn, còn dùng đơn bàn thì cũng tạm khả dĩ .Khi tu luyện thì khí lưu [chuyển] tương đối mạnh, trường năng lượng bên ngoài tương đối lớn. Động tác thực hành thuận theo khí cơ của Sư phụ [đã cấp]. Khi khởi thủ {di chuyển tay} thì ý đặt vào động tác, khi gia trì thần thông thì ý [rỗng] không, tiềm ý thức hơi tí tẹo đặt ở hai bàn tay. Lòng bàn tay có nhiệt, nặng, có điện tê, cảm giác như có vật. Nhưng không được dụng ý truy cầu, mà tuỳ kỳ tự nhiên {thuận theo tự nhiên}. Thời gian bàn toạ càng lâu càng tốt, căn cứ theo công đê nhi định {định lực (?)}, thời gian càng lâu, cường độ càng lớn, xuất công càng nhanh. Khi luyện công (không nghĩ gì hết, không có ý niệm nào cả) dần dần nhập tĩnh. Từ trạng thái động công tự tĩnh phi định {tự nó tĩnh chưa phải là định khi tập động tác} dần dần nhập định. Tuy nhiên chủ ý thức biết rằng mình đang luyện công.

Quyết: Hữu ý vô ý, ấn tuỳ cơ khởi, Tự không phi không, động tĩnh như ý.
Lưỡng thủ kết ấn {hai tay kết ấn}: Song bàn đả toạ, toàn thân thả lỏng, lỏng nhưng không oải, lưng ngay cổ thẳng, cằm dưới hơi thu, lưỡi đặt hàm trên, hàm răng hé mở một chút xíu, môi miệng ngậm khít, hai mắt nhắm khẽ, tâm sinh từ bi, ý nét mặt hoà nhã. Hai tay kết-ấn tại chỗ bụng dưới, dần dần nhập tĩnh (như hình 5-1).

Thủ ấn chi nhất {thủ ấn thứ nhất}: (khi khởi thủ, ý đặt vào chuyển động, thuận theo khí cơ của Sư phụ cài mà thực hành, yêu cầu hoãn-mạn-viên). Hai tay từ trạng thái kết ấn dần dần đưa lên; lên đến trước đầu thì quay bàn tay hướng lên trên; khi bàn tay hướng hẳn lên trên thì nó cũng đạt đến điểm cao nhất (như hình 5-2). Tiếp theo tách hai bàn tay, vạch một vòng cung trên đỉnh đầu, chuyển động sang hai bên, chuyển tiếp cho đến bên biên trước của đầu (như hình 5-3). Ngay tiếp đó hai tay dần dần hạ xuống, hai cùi trỏ hướng vào trong, lòng hai bàn tay hướng lên trên, ngón tay chỉ về phía trước (như hình 5-4).

Sau đó hai cổ tay vừa duỗi thẳng ra, vừa bắt chéo trước ngực. Nam tay trái ở ngoài, nữ tay phải ở ngoài (như hình 5-5). Khi từ bắt chéo nhau chuyển thành chữ "nhất"; đối với tay bên ngoài: cổ tay xoay ra ngoài, vừa hướng lòng bàn tay lên trên, vạch một hình bán nguyệt lớn, trở thành lòng bàn tay hướng lên trên, ngón tay chỉ về phía sau, tay có lực nhất định; đối với tay bên trong, sau khi bắt chéo xong, lòng bàn tay dần dần chuyển hướng xuống dưới, duỗi thẳng ra, tay và cánh tay xoay sao cho lòng bàn tay hướng ra ngoài, tay và cánh tay nghiêng với thân thể một góc 30 độ (như hình 5-6).

Thủ ấn chi nhị {thủ ấn thứ hai}: Từ thế tay ở hình 5-6, tay trái (tay ở trên) từ vị trí đó dời đi; tay phải vừa xuay hướng lòng bàn tay vào trong, vừa đưa lên; động tác giống thủ ấn chi nhất với phải trái giao hoán, vị trí của tay tương phàn (như hình 5-7).

Thủ ấn chi tam {thủ ấn thứ ba}: Tay phải của nam (nữ là tay trái) cổ tay vừa duỗi ra, lòng bàn tay vừa hướng vào thân thể, thông qua bắt chéo tay trước ngực, lòng bàn tay chuyển hướng xuống dưới, đưa nghiêng xuống đến chỗ trước bụng dưới, cánh tay duỗi ra; tay trái của nam (nữ là tay phải) chuyển lòng bàn tay hướng vào trong, vừa đi lên, bắt chéo tay xong, vừa xoay bàn tay, vừa vận động hướng về vai trái (nữ là vai phải), khi tay đến vị trí ấy, lòng bàn tay hướng lên, ngón tay chỉ về phía trước (như hình 5-8).

Thủ ấn chi tứ {thủ ấn thứ tư}: Là thủ ấn chi tam giao hoán, nam tay trái (nữ tay phải) chuyển động xoay vào trong; nam tay phải (nữ tay trái) chuyển động hướng ra ngoài; động tác cũng như thế nhưng giao hoán phải trái với nhau, thế tay tương phản (như hình 5-9).

Gia trì cầu trạng thần thông {gia trì thần thông hình cầu}: Tiếp theo "thủ ấn chi tứ", thì tay trên chuyển vào trong, tay dưới chuyển ra ngoài; tay phải của nam dần dần dần xoay, lòng bàn tay hướng vào ngực di chuyển xuống. Tay trái của nam (tay phải của nữ) nâng lên, khi hai cánh tay đạt đến hình chữ nhất ở trước ngực (như hình 5-10), thì hai tay vừa tách sang hai bên (như hình 5-11), vừa xoay chuyển lòng bàn tay xuống dưới. Khi tay đạt đến chỗ bên ngoài biên đầu gối thì độ cao của bàn tay ở ngang lưng, cánh tay dưới và cổ tay cao bằng nhau, hai cánh tay thả lỏng (như hình 5-12). Tư thế này lấy những thần thông ra hai tay để gia trì, lấy những thần thông hình cầu. Khi gia trì thần thông, bàn tay có nhiệt, nặng, điện tê, cảm giác như có vật. Tuy nhiên không được dụng ý truy cầu, phải tuỳ kỳ tự nhiên. Hình [thế] này làm càng lâu càng tốt, làm đến lúc không kiên trì được mới thôi.

Gia trì trụ trạng thần thông {gia trì thần thông hình trụ}: Tiếp theo hình [thế] trên; tay phải (nữ là tay trái) vừa chuyển với lòng bàn tay hướng lên trên, vừa đưa về phía chỗ bụng dưới, đến vị trí đó rồi, đặt bàn tay vào vị trí ấy với lòng bàn tay hướng lên trên; trong khi tay phải thực hiện động tác, thì tay trái (nữ là tay phải) vừa đưa lên trên, vừa chuyển động đến chỗ dưới cằm, lòng bàn tay hướng xuống dưới, bàn tay cao bằng mép dưới cằm, tay và cánh tay trên để ngang. Đến lúc này, hai lòng bàn tay hướng vào nhau, định lại ở hình [thế] này (như hình 5-13); đây là gia trì thần thông hình trụ, ví dụ như loại chưởng thủ lôi {lôi đánh bằng tay}. Thực hiện đến lúc tự bản thân mình không thể kiên trì hơn được.
Sau đó tay trên vẽ một vòng bán nguyệt ở phía trước, chuyển đến vị trí chỗ bụng dưới; đồng thời tay dưới nâng lên, và xoay lòng bàn tay hướng xuống dưới, đưa đến vị trí dưới cằm (như hình 5-14), cánh tay cao bằng vai, hai lòng bàn tay hướng vào nhau. Đây cũng là gia trì thần thông hình trụ, chỉ khác là thế tay tương phản. Thực hiện lâu đến mức cánh tay không kiên trì được nữa thì mới thôi.

Tĩnh công tu luyện {tu luyện tĩnh công}: Tiếp theo hình [thế] trên, tay trên vạch một hình bán nguyệt phía trước, và đặt vào chỗ bụng dưới, hai tay vào trạng thái lưỡng thủ kết-ấn (như hình 5-15); nhập tĩnh công tu luyện. Nhập định, thời gian càng lâu càng tốt.
Thu thế: Hai tay "hợp-thập" (như hình 5-16), xuất định, ra khỏi trạng thái song bàn.

Chú thích :
Bàn toạ: ngồi xếp bằng thế hoa sen, cũng gọi là kiết-già. Đơn bàn: ngồi thế bán-già, chân trái đặt trên chân phải, với bàn chân trái đặt ngửa trên đùi chân phải (nữ thì ngược lại, chân phải ở trên). Toàn bàn hoặc song bàn: ngồi thế kiết già đầy đủ; từ thế đơn bàn, lấy chân phải đặt tiếp lên chân trái (kéo qua mé ngoài chứ không phải từ trong), tức là chân phải ở trên (nữ làm ngược lại, chân trái ở trên); như vậy hai bàn chân đặt ngửa trên hai đùi (xem kỹ hình chụp).
 

Em gai ngay tho

New Member
Minh Mạc có bít về sự tồn tại của chưởng lực mà sẽ đạt được khi luyện khí công ko?Tất nhiên ko thể như phim ảnh nhưng khá là khủng khiếp nếu so với người bình thường.
 

Tra cứu điểm thi

Phần mềm mới

Quảng cáo

11223344550983550000
Top