Appassionata
Member
Chiến tranh chớp nhoáng
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Blitzkrieg là chiến thuật chiến tranh chớp nhoáng, hay đánh nhanh thắng nhanh, của học thuyết quân sự Đức. Trong tiếng Đức, "Blitzkrieg" là một từ ghép, blitz-krieg, có nghĩa là cuộc chiến tranh chớp nhoáng, mà trong cuộc chiến tranh đó hành động tấn công căn bản là dùng khối lượng xe tăng thật lớn với sự yểm hộ của phi cơ thọc sâu một cách táo bạo vào trung tâm của đối phương. Đây là chiến thuật quân sự mà quân đội phát xít Đức đã sử dụng trong Đệ nhị thế chiến.
Trong Đệ nhị thế chiến, quân đội phát xít Đức từ trước khi tấn công vào Liên Xô đã có kinh nghiệm chiến đấu trên các chiến trường khắp châu Âu trong hai năm: Pháp, Bỉ, Hà Lan và một số nước khác. Các cuộc chiến tranh ở Pháp, Bỉ, Hà Lan và nhất là cuộc chiến tranh chống Ba Lan vào tháng 9 năm 1939 đã khẳng định trong điều kiện chiến tranh với một kẻ địch yếu thì những hình thức tiến hành chiến dịch mà quân đội Hitler đề ra ngay từ hồi đó (tháng 9 năm 1939) theo chiến thuật Blitzkrieg là rất hợp lý.
Sự phát triển
Đệ nhất thế chiến (1914–1918) là một quá trình phát triển của chiến thuật của quân Đồng Minh trong việc sử dụng một khối lượng lớn bộ binh để tấn công sau một thời gian bắn phá mãnh liệt, nhưng do hiệu quả của pháo binh lúc đó còn thấp và quân Đức có thể chuyển sang chiến thuật phòng ngự trận địa kiên cố. Các năm 1916–1918 quân Đức bố trí đội hình chiến đấu thành từng toán, nên quân đội Anh – Pháp phải trang bị rất nhiều phương tiện hỏa lực để gây tổn thương cho bộ binh và kị binh càng nhiều càng tốt. Nhưng cũng trong cuộc chiến tranh này, sự xuất hiện của hai loại phương tiện chiến tranh mới đã làm thay đổi nhiều trong các học thuyết chiến tranh sau này: xe tăng thiết giáp và máy bay có vũ trang. Thứ nhất, chúng trở nên bất khả xâm phạm với các loại vũ khí bộ binh và có sức cơ động chiến đấu rất cao. Các ưu điểm này đã thay đổi toàn bộ về cách thức tiến hành chiến tranh.
Sau chiến tranh, nhiều ý kiến tập trung vào phát triển các loại phương tiện chiến tranh mới đã này được đề xuất; đồng thời cũng có các nghiên cứu về chiến thuật chiến đấu của các phương tiện đó trong sự phối hợp với các binh chủng khác. Các phương tiện chở máy bay trên biển cũng được phát triển để có thể đưa máy bay chiến đấu đến gần lãnh thổ đối phương hơn, và dần dần giảm nhu cầu trang bị pháo hạm tầm xa. Tại Nga, vì đất rộng nên sự xuất hiện của các đơn vị bộ đội nhẩy dù đã đem lại cho bộ binh những sức cơ động chiến đấu mới, và các hạm đội lớn có nhiều xe tăng hạng nhẹ với tốc độ nhanh đã được hình thành để tăng cường sức cơ động của bộ binh. Ở Anh, dù ngăn cách với châu Âu bằng biển Manche, nhưng người ta cũng phát triển những đơn vị được trang bị "bộ binh thiết giáp" hay "bộ binh xe tăng" để hỗ trợ cho bộ binh bằng sự yểm hộ trực tiếp của hỏa lực xe tăng. Chính vì thế mà xe tăng hạng nhẹ được chế tạo nhiều để thay thế cho kị binh đã tỏ ra lỗi thời.
Các quân đội khác như Pháp và Ba Lan vẫn dùng lý luận chiến tranh trận địa lỗi thời: xây dựng hệ thống phòng ngự công sự với những bãi mìn (như ở trong chiến lũy Ma-gi-nô). Mặc dù có trang bị nhiều bunker bằng bê-tông và pháo binh hạng nặng, chiến thuật phòng ngự này tỏ ra quá yếu trong chiến tranh hiện đại. Còn quân đội Ba Lan thì thậm chí vẫn còn phát triển kị binh.
Quân đội Đức sau chiến tranh, bỏ lại những khó khăn hạn chế của một nước bại trận, đã tập trung vào việc phát triển lý luận quân sự mới. Kéo theo là sự phát triển nhanh chóng của xe tăng và máy bay tấn công loại mới cho quân đội, chủ yếu dựa trên lý luận của nhà quân sự người Anh Basil Liddell Hart đã được phổ biến rộng rãi trong thời hậu chiến.
Trong đầu thập niên 1920, tướng Đức Hans von Seeckt, đứng đầu quân đội Đức lúc đó, đã viết rằng đóng vai trò quyết định những cuộc chiến tranh trong tương lai sẽ thuộc về các lực lượng tấn công nhỏ hơn nhưng có trang bị hỏa lực mạnh và sức cơ động cao, với sự yểm hộ hiệu quả của một lực lượng không quân tấn công mạnh. Tướng Đức Heinz Guderian, được bổ nhiệm chủ nhiệm trường xe tăng Nga-Đức ở Ca-dan, đã thu thập được nhiều kinh nghiệm trong huấn luyện chiến đấu trên chiến trường Nga và có nhiều đóng góp trong việc dứt bỏ hẳn những gì rơi rớt lại của cuộc đại chiến thế giới I mà nước Đức đã là nước bại trận.
Guderian đã dùng những tư tưởng của Lidell-Hart với những ý tưởng phát triển mới, và sau này đã có vài năm để hoàn thiện chúng trên thực tế huấn luyện chiến đấu.
Chính những tư tưởng của Guderian lại được sự hậu thuẫn của Hitler vì chiến tranh được coi là một phương tiện cần thiết để tiến tới bá chủ thế giới. Giới cầm quyền Đức gấp rút tái trang bị và tái vũ trang quân đội theo hướng quân phiệt hóa mọi hoạt động xã hội.
Hitler và hiểu rõ sự khác biệt giữa cuộc chiến tranh sắp tiến hành so với cuộc chiến tranh đã qua, và đã đạt được những kỳ tích trong việc vượt qua những khó khăn của một nước thua trận để xây dựng lại nền công nghiệp quốc phòng. Chính trong môi trường này, những ý tưởng của Guderian tìm được mảnh đất màu mỡ để phát triển. Với sự ủng hộ của Hitler, công nghiệp xe tăng đã chế tạo rất nhiều xe tăng nhỏ và xe thiết giáp tốc độ cao để trang bị cho bộ binh, và lực lượng này phát triển hết sức nhanh. Guderian đã trở thành một sư đoàn trưởng xe tăng của sư đoàn xe tăng Con Báo đầu tiên và, năm 1938, trở thành Quân đoàn trưởng của Quân đoàn xe tăng Con Báo của Đức, sau đó trở thành tư lệnh của lực lượng cơ động chiến đấu Đức, trực tiếp dưới quyền Tổng tư lệnh Hitler. Với những kinh nghiệm của Guderian và trang bị rất tốt và hiện đại, quân đội Đức đã sẵn sàng tiến hành chiến thuật "Chiến tranh chớp nhoáng" trên chiến trường.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Blitzkrieg là chiến thuật chiến tranh chớp nhoáng, hay đánh nhanh thắng nhanh, của học thuyết quân sự Đức. Trong tiếng Đức, "Blitzkrieg" là một từ ghép, blitz-krieg, có nghĩa là cuộc chiến tranh chớp nhoáng, mà trong cuộc chiến tranh đó hành động tấn công căn bản là dùng khối lượng xe tăng thật lớn với sự yểm hộ của phi cơ thọc sâu một cách táo bạo vào trung tâm của đối phương. Đây là chiến thuật quân sự mà quân đội phát xít Đức đã sử dụng trong Đệ nhị thế chiến.
Trong Đệ nhị thế chiến, quân đội phát xít Đức từ trước khi tấn công vào Liên Xô đã có kinh nghiệm chiến đấu trên các chiến trường khắp châu Âu trong hai năm: Pháp, Bỉ, Hà Lan và một số nước khác. Các cuộc chiến tranh ở Pháp, Bỉ, Hà Lan và nhất là cuộc chiến tranh chống Ba Lan vào tháng 9 năm 1939 đã khẳng định trong điều kiện chiến tranh với một kẻ địch yếu thì những hình thức tiến hành chiến dịch mà quân đội Hitler đề ra ngay từ hồi đó (tháng 9 năm 1939) theo chiến thuật Blitzkrieg là rất hợp lý.
Sự phát triển
Đệ nhất thế chiến (1914–1918) là một quá trình phát triển của chiến thuật của quân Đồng Minh trong việc sử dụng một khối lượng lớn bộ binh để tấn công sau một thời gian bắn phá mãnh liệt, nhưng do hiệu quả của pháo binh lúc đó còn thấp và quân Đức có thể chuyển sang chiến thuật phòng ngự trận địa kiên cố. Các năm 1916–1918 quân Đức bố trí đội hình chiến đấu thành từng toán, nên quân đội Anh – Pháp phải trang bị rất nhiều phương tiện hỏa lực để gây tổn thương cho bộ binh và kị binh càng nhiều càng tốt. Nhưng cũng trong cuộc chiến tranh này, sự xuất hiện của hai loại phương tiện chiến tranh mới đã làm thay đổi nhiều trong các học thuyết chiến tranh sau này: xe tăng thiết giáp và máy bay có vũ trang. Thứ nhất, chúng trở nên bất khả xâm phạm với các loại vũ khí bộ binh và có sức cơ động chiến đấu rất cao. Các ưu điểm này đã thay đổi toàn bộ về cách thức tiến hành chiến tranh.
Sau chiến tranh, nhiều ý kiến tập trung vào phát triển các loại phương tiện chiến tranh mới đã này được đề xuất; đồng thời cũng có các nghiên cứu về chiến thuật chiến đấu của các phương tiện đó trong sự phối hợp với các binh chủng khác. Các phương tiện chở máy bay trên biển cũng được phát triển để có thể đưa máy bay chiến đấu đến gần lãnh thổ đối phương hơn, và dần dần giảm nhu cầu trang bị pháo hạm tầm xa. Tại Nga, vì đất rộng nên sự xuất hiện của các đơn vị bộ đội nhẩy dù đã đem lại cho bộ binh những sức cơ động chiến đấu mới, và các hạm đội lớn có nhiều xe tăng hạng nhẹ với tốc độ nhanh đã được hình thành để tăng cường sức cơ động của bộ binh. Ở Anh, dù ngăn cách với châu Âu bằng biển Manche, nhưng người ta cũng phát triển những đơn vị được trang bị "bộ binh thiết giáp" hay "bộ binh xe tăng" để hỗ trợ cho bộ binh bằng sự yểm hộ trực tiếp của hỏa lực xe tăng. Chính vì thế mà xe tăng hạng nhẹ được chế tạo nhiều để thay thế cho kị binh đã tỏ ra lỗi thời.
Các quân đội khác như Pháp và Ba Lan vẫn dùng lý luận chiến tranh trận địa lỗi thời: xây dựng hệ thống phòng ngự công sự với những bãi mìn (như ở trong chiến lũy Ma-gi-nô). Mặc dù có trang bị nhiều bunker bằng bê-tông và pháo binh hạng nặng, chiến thuật phòng ngự này tỏ ra quá yếu trong chiến tranh hiện đại. Còn quân đội Ba Lan thì thậm chí vẫn còn phát triển kị binh.
Quân đội Đức sau chiến tranh, bỏ lại những khó khăn hạn chế của một nước bại trận, đã tập trung vào việc phát triển lý luận quân sự mới. Kéo theo là sự phát triển nhanh chóng của xe tăng và máy bay tấn công loại mới cho quân đội, chủ yếu dựa trên lý luận của nhà quân sự người Anh Basil Liddell Hart đã được phổ biến rộng rãi trong thời hậu chiến.
Trong đầu thập niên 1920, tướng Đức Hans von Seeckt, đứng đầu quân đội Đức lúc đó, đã viết rằng đóng vai trò quyết định những cuộc chiến tranh trong tương lai sẽ thuộc về các lực lượng tấn công nhỏ hơn nhưng có trang bị hỏa lực mạnh và sức cơ động cao, với sự yểm hộ hiệu quả của một lực lượng không quân tấn công mạnh. Tướng Đức Heinz Guderian, được bổ nhiệm chủ nhiệm trường xe tăng Nga-Đức ở Ca-dan, đã thu thập được nhiều kinh nghiệm trong huấn luyện chiến đấu trên chiến trường Nga và có nhiều đóng góp trong việc dứt bỏ hẳn những gì rơi rớt lại của cuộc đại chiến thế giới I mà nước Đức đã là nước bại trận.
Guderian đã dùng những tư tưởng của Lidell-Hart với những ý tưởng phát triển mới, và sau này đã có vài năm để hoàn thiện chúng trên thực tế huấn luyện chiến đấu.
Chính những tư tưởng của Guderian lại được sự hậu thuẫn của Hitler vì chiến tranh được coi là một phương tiện cần thiết để tiến tới bá chủ thế giới. Giới cầm quyền Đức gấp rút tái trang bị và tái vũ trang quân đội theo hướng quân phiệt hóa mọi hoạt động xã hội.
Hitler và hiểu rõ sự khác biệt giữa cuộc chiến tranh sắp tiến hành so với cuộc chiến tranh đã qua, và đã đạt được những kỳ tích trong việc vượt qua những khó khăn của một nước thua trận để xây dựng lại nền công nghiệp quốc phòng. Chính trong môi trường này, những ý tưởng của Guderian tìm được mảnh đất màu mỡ để phát triển. Với sự ủng hộ của Hitler, công nghiệp xe tăng đã chế tạo rất nhiều xe tăng nhỏ và xe thiết giáp tốc độ cao để trang bị cho bộ binh, và lực lượng này phát triển hết sức nhanh. Guderian đã trở thành một sư đoàn trưởng xe tăng của sư đoàn xe tăng Con Báo đầu tiên và, năm 1938, trở thành Quân đoàn trưởng của Quân đoàn xe tăng Con Báo của Đức, sau đó trở thành tư lệnh của lực lượng cơ động chiến đấu Đức, trực tiếp dưới quyền Tổng tư lệnh Hitler. Với những kinh nghiệm của Guderian và trang bị rất tốt và hiện đại, quân đội Đức đã sẵn sàng tiến hành chiến thuật "Chiến tranh chớp nhoáng" trên chiến trường.