Appassionata
Member
Trường phái âm nhạc cổ điển Vienna
http://www.giaidieuxanh.vietnamnet.vn/nhacclassical/2005/07/473903/
Vào thế kỷ XVII, Áo là một nước quân chủ phong kiến chuyên chế, bao gồm các lãnh địa của Đức và vùng Đông Nam Âu vừa thoát khỏi ách xâm lược của Đế chế Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ. Dân chúng ở đây vừa là người Đức, Áo vừa người Hung, Slovakia và nhiều dân tộc khác. .. Với tình trạng nhiều dân tộc như thế nên nghệ thuật , nhất là âm nhạc, có môi trường thuận lợi để phát triển phong phú rộng rãi. Từ những con phố, ngoài công viên, quán chợ đến các phòng hòa nhạc... đâu đâu cũng đàn ca, hát hội.
Những bản dân ca thành thị, những khúc valse, khúc serenade... là món ăn tinh thần không thể thiếu đối với người dân thành Vienna yêu nhạc. Bên cạnh những hình thức sinh hoạt quần chúng, trong những lâu đài quan trọng, phong cách “hàn lâm” được các nhà soạn nhạc trình bày qua các tác phẩm mới, các nhạc sỹ tài năng biểu diễn tạo thành những hình thức hoạt động trên lĩnh vực âm nhạc muôn hình muôn vẻ.
Những vở nhạc kịch hấp dẫn cùng những sáng tác hài kịch Đức - Áo của Mozart, Muiler đã mang tư tưởng dân tộc, dân chủ, chống hoàng tộc, chống thủ cựu. Qua những vở nhạc kịch Orpheé và Alcesta, những kiệt tác của những năm 60 của thế kỷ 17, tên tuổi nhà cải cách nhạc kịch William Gluck đã đi vào lịch sử, cho đến những bản giao hưởng, sonate của Haydn, Mozart và Beethoven sau này ... đã làm cho thủ đô Vienna trở thành trung tâm âm nhạc của châu Âu.
Tất cả những sự kiện đó, các nhạc sỹ lỗi lạc ấy, đã tạo cơ sở cho sự nảy sinh và kết tinh một trào lưu âm nhạc mới, khác với những thế kỷ trước – trào lưu âm nhạc cổ điển – và Vienna chính là quê hương của trường phái âm nhạc đó: Cổ điển Vienna. Tới nửa sau thế kỷ XVIII., nền âm nhạc cổ điển Vienna là sự tổng hợp của thế giới quan và những khuynh hướng thẩm mỹ mới nảy nở trong nghệ thuật âm nhạc. Trường phái nghệ thuật này có quan hệ chặt chẽ với cuộc cách mạng tư sản Pháp với chủ nghĩa duy ký của phái Bách khoa của thế kỷ Ánh sáng. Đó là những ý niệm về lòng nhân đạo, niềm tin vào lý tính, tinh thần lạc quan, tính nhân dân và dân chủ. Những tư tưởng mới đó được phản ánh trong những kiệt tác của các danh nhân tiến bộ của xã hội Áo bấy giờ.
Tại nước Áo, ngoài những ảnh hưởng trên, nền âm nhạc ở đây còn chịu tác động bởi những cuộc nổi dậy của nông dân đấu tranh chống cường quyền và nhà thờ khắc nghiệt. Những cuộc đấu tranh đó có thu được một số thắng lợi. Để bảo vệ cho bọn địa chủ, chính quyền có nới cho họ chút quyền tự do, nhưng đó chỉ là “vỏ ngoài”, thực ra đời sống của nông dân vẫn lầm than cực khổ. Song đối những ai có đầu óc dân chủ tiến bộ ở Áo khi đó, họ cảm thấy có phần nào thoải mái hơn trong việc phản ánh những ước mơ, những suy nghĩ thầm kín về sự công bằng, về một tương lai tươi sáng. Những tâm tư ấy được biểu hiện qua các tác phẩm của các nhạc sỹ cổ điển Vienna. Thời ấy, để có thể làm việc được, các nhạc sỹ tài năng đều phải sống dựa vào các nhà bảo trợ nghệ thuật trong giai cấp quý tộc ( các Mạnh Thường Quân). Họ phải vừa làm gia sư, quản lý và sáng tác theo yêu cầu của “ông chủ”.
Nhưng họ đã biết khai thác từ những tác phẩm âm nhạc quần chúng, sinh hoạt nghệ thuật dân gian để viết lên những bản nhạc sôi nổi, đa sắc, những suy tư về hạnh phúc, nỗi lo âu trong thế giới nội tâm con người. Đó là những “bức tranh ẩn dụ” mô tả sinh hoạt của dân chúng, những phút trầm tư mặc tưởng, đau thương, oán hận... bên cạnh xúc cảm trước các hiện tượng thiên nhiên tươi đẹp.
Niềm tin tư tưởng trong các tác phẩm của các nghệ sỹ cổ điển Vienna là thể hiện niềm tin vào sự chiến thắng của lý trí và tinh thần lạc quan nhân đạo, tiến lên phía trước. Trong bản giao hưởng của Josept Haydn thời kỳ đầu, trong nhạc kịch của Wolfgang Amadeus Mozart, trong sonate và giao hưởng của Ludwig van Beethoven ... đó là những bản anh hùng ca nói về tinh thần lạc quan, niềm tin vào một ngày mai xán lạn. Nhưng bên cạnh đó, họ có không ít những năm tháng đau thương tủi nhục của cuộc đời một nhạc sỹ hầu cận các gia đình quý tộc, đó cũng là nguyên nhân của biết bao âm điệu trầm lắng trong khúc “cầu hồn” - bản Requiem – mà Mozart viết lúc cuối đời, trong bản giao hưởng Tang lễ, bản giao hưởng Vĩnh biệt của Haydn, trong Appasionata của Beethoven.... Nhưng hầu hết các tác phẩm của họ đều toát lên sự sáng sủa, khoẻ khoắn, thu hút mọi người.
Kế thừa các bậc tiền bối, các nhạc sỹ cổ điển Vienna đã hoàn thiện hình thức sonate. Ở thế kỷ trước (XVII), thể sonate đã được sử dụng nhưng kết cấu đơn giản nhưng Haydn, Mozart và nhất là Beethoven đã thế hiện một cách sáng tạo trong nhiều kiệt tác. Sonate là một cơ cấu, trong đó chứa đựng nhiều chủ đề, hình tượng âm nhạc tương phản, được tận dụng tạo kịch tính. Điều này thật phù hợp với những hiện tượng xã hội đang diễn ra dưới dạng đấu tranh khác nhau của thể kỷ 18 mà các nhạc sỹ Viên đang sống. Thông thường hình thức sonate gồm 3 phần: phần trình bày, tiếp đến phần phát triển: đây là trung tâm tính kịch của hình thức sonate, những hình tượng tương phản xung đột, sự xuất hiện của các chủ đề của phần trình bày với một dạng khác. Cuối cùng là phần tái hiện: nhắc lại những chủ đề nguyên dạng, trở về điệu tính chủ.
Song song với hình thức này, liên khúc sonate cũng được sử dụng. Haydn là người đầu tiên đã thành công trong việc áp dụng liên khúc sonate và giao hưởng 4 chương, nên người ta coi ông chính là “cha đẻ” của giao hưởng. Liên khúc sonate ra đời cũng làm cho một số thể loại khác phát triển như song tấu, tam tấu, tứ tấu.... và các concerto cho các loại đàn (nhạc cụ độc tấu với dàn nhạc giao hưởng viết bằng liên khúc sonate). Liên khúc sonate là hình thức âm nhạc có 3 - 4 chương, mỗi chương thường có một sắc thái riêng để mô tả một khía cạnh của chủ đề tư tưởng. Với sự xuất hiện của liên khúc sonate, từ đây đã đánh dấu một bước vĩ đại trong khí nhạc, nhạc sỹ có thể đề cập đến những vấn đề mà trước đây nhạc không lời chưa biểu hiện được. Ví dụ Beethoven đã để lại cho hậu thế những kiệt tác bất hủ như bản Appasionata, các bản giao hưởng ưu tú cùng nhiều bản thính phòng khác.
Một điều quan trọng làm cho các tác phẩm của những nhạc sỹ cổ điển Viên trở thành bất tử là do ấn tượng mạnh mẽ của các chủ đề. Khác với âm nhạc thế kỷ 17, các chủ đề thường triền miên vô tận đôi khi quá trừu tượng, thì chủ đề của các nhạc sỹ thành Viên rất trong sáng, giản dị, truyền cảm sâu sắc, dễ đọng lại lâu dài trong trí nhớ của khán thính giả. Dân ca cũng là chất liệu phong phú để thể hiện chủ đề. Trong bản giao hưởng Trống rung cung Mi giáng trưởng của mình, Haydn đã đưa dân ca Khrvat (một vùng Nam Tư giáp Áo) để miêu tả tâm trạng âm thầm ai oán. Từ những chủ đề có hình tượng khái quát như chủ đề “định mệnh” trong Giao hưởng số 5 của Beethoven, đến những chủ đề đơn sơ mộc mạc thôn dã, mang tính cá biệt như chương I trong Giao hưởng số 6 của ông rất dễ hiểu, dễ thấm. Trong xây dựng chủ đề, các nhạc sỹ cổ điển Vienna đã cố tránh trừu tượng, tránh mô tả thiên nhiên một cách sống sượng. Với sự xuất hiện của những chủ đề có cá tính, nên từ đây, trong âm nhạc bắt đầu thịnh hành một thủ pháp soạn nhạc là phát triển “môtip”, phát triển chủ đề mà Haydn, Beethoven rất hay áp dụng.
http://www.giaidieuxanh.vietnamnet.vn/nhacclassical/2005/07/473903/
Vào thế kỷ XVII, Áo là một nước quân chủ phong kiến chuyên chế, bao gồm các lãnh địa của Đức và vùng Đông Nam Âu vừa thoát khỏi ách xâm lược của Đế chế Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ. Dân chúng ở đây vừa là người Đức, Áo vừa người Hung, Slovakia và nhiều dân tộc khác. .. Với tình trạng nhiều dân tộc như thế nên nghệ thuật , nhất là âm nhạc, có môi trường thuận lợi để phát triển phong phú rộng rãi. Từ những con phố, ngoài công viên, quán chợ đến các phòng hòa nhạc... đâu đâu cũng đàn ca, hát hội.
Những bản dân ca thành thị, những khúc valse, khúc serenade... là món ăn tinh thần không thể thiếu đối với người dân thành Vienna yêu nhạc. Bên cạnh những hình thức sinh hoạt quần chúng, trong những lâu đài quan trọng, phong cách “hàn lâm” được các nhà soạn nhạc trình bày qua các tác phẩm mới, các nhạc sỹ tài năng biểu diễn tạo thành những hình thức hoạt động trên lĩnh vực âm nhạc muôn hình muôn vẻ.
Những vở nhạc kịch hấp dẫn cùng những sáng tác hài kịch Đức - Áo của Mozart, Muiler đã mang tư tưởng dân tộc, dân chủ, chống hoàng tộc, chống thủ cựu. Qua những vở nhạc kịch Orpheé và Alcesta, những kiệt tác của những năm 60 của thế kỷ 17, tên tuổi nhà cải cách nhạc kịch William Gluck đã đi vào lịch sử, cho đến những bản giao hưởng, sonate của Haydn, Mozart và Beethoven sau này ... đã làm cho thủ đô Vienna trở thành trung tâm âm nhạc của châu Âu.
Tất cả những sự kiện đó, các nhạc sỹ lỗi lạc ấy, đã tạo cơ sở cho sự nảy sinh và kết tinh một trào lưu âm nhạc mới, khác với những thế kỷ trước – trào lưu âm nhạc cổ điển – và Vienna chính là quê hương của trường phái âm nhạc đó: Cổ điển Vienna. Tới nửa sau thế kỷ XVIII., nền âm nhạc cổ điển Vienna là sự tổng hợp của thế giới quan và những khuynh hướng thẩm mỹ mới nảy nở trong nghệ thuật âm nhạc. Trường phái nghệ thuật này có quan hệ chặt chẽ với cuộc cách mạng tư sản Pháp với chủ nghĩa duy ký của phái Bách khoa của thế kỷ Ánh sáng. Đó là những ý niệm về lòng nhân đạo, niềm tin vào lý tính, tinh thần lạc quan, tính nhân dân và dân chủ. Những tư tưởng mới đó được phản ánh trong những kiệt tác của các danh nhân tiến bộ của xã hội Áo bấy giờ.
Tại nước Áo, ngoài những ảnh hưởng trên, nền âm nhạc ở đây còn chịu tác động bởi những cuộc nổi dậy của nông dân đấu tranh chống cường quyền và nhà thờ khắc nghiệt. Những cuộc đấu tranh đó có thu được một số thắng lợi. Để bảo vệ cho bọn địa chủ, chính quyền có nới cho họ chút quyền tự do, nhưng đó chỉ là “vỏ ngoài”, thực ra đời sống của nông dân vẫn lầm than cực khổ. Song đối những ai có đầu óc dân chủ tiến bộ ở Áo khi đó, họ cảm thấy có phần nào thoải mái hơn trong việc phản ánh những ước mơ, những suy nghĩ thầm kín về sự công bằng, về một tương lai tươi sáng. Những tâm tư ấy được biểu hiện qua các tác phẩm của các nhạc sỹ cổ điển Vienna. Thời ấy, để có thể làm việc được, các nhạc sỹ tài năng đều phải sống dựa vào các nhà bảo trợ nghệ thuật trong giai cấp quý tộc ( các Mạnh Thường Quân). Họ phải vừa làm gia sư, quản lý và sáng tác theo yêu cầu của “ông chủ”.
Nhưng họ đã biết khai thác từ những tác phẩm âm nhạc quần chúng, sinh hoạt nghệ thuật dân gian để viết lên những bản nhạc sôi nổi, đa sắc, những suy tư về hạnh phúc, nỗi lo âu trong thế giới nội tâm con người. Đó là những “bức tranh ẩn dụ” mô tả sinh hoạt của dân chúng, những phút trầm tư mặc tưởng, đau thương, oán hận... bên cạnh xúc cảm trước các hiện tượng thiên nhiên tươi đẹp.
Niềm tin tư tưởng trong các tác phẩm của các nghệ sỹ cổ điển Vienna là thể hiện niềm tin vào sự chiến thắng của lý trí và tinh thần lạc quan nhân đạo, tiến lên phía trước. Trong bản giao hưởng của Josept Haydn thời kỳ đầu, trong nhạc kịch của Wolfgang Amadeus Mozart, trong sonate và giao hưởng của Ludwig van Beethoven ... đó là những bản anh hùng ca nói về tinh thần lạc quan, niềm tin vào một ngày mai xán lạn. Nhưng bên cạnh đó, họ có không ít những năm tháng đau thương tủi nhục của cuộc đời một nhạc sỹ hầu cận các gia đình quý tộc, đó cũng là nguyên nhân của biết bao âm điệu trầm lắng trong khúc “cầu hồn” - bản Requiem – mà Mozart viết lúc cuối đời, trong bản giao hưởng Tang lễ, bản giao hưởng Vĩnh biệt của Haydn, trong Appasionata của Beethoven.... Nhưng hầu hết các tác phẩm của họ đều toát lên sự sáng sủa, khoẻ khoắn, thu hút mọi người.
Kế thừa các bậc tiền bối, các nhạc sỹ cổ điển Vienna đã hoàn thiện hình thức sonate. Ở thế kỷ trước (XVII), thể sonate đã được sử dụng nhưng kết cấu đơn giản nhưng Haydn, Mozart và nhất là Beethoven đã thế hiện một cách sáng tạo trong nhiều kiệt tác. Sonate là một cơ cấu, trong đó chứa đựng nhiều chủ đề, hình tượng âm nhạc tương phản, được tận dụng tạo kịch tính. Điều này thật phù hợp với những hiện tượng xã hội đang diễn ra dưới dạng đấu tranh khác nhau của thể kỷ 18 mà các nhạc sỹ Viên đang sống. Thông thường hình thức sonate gồm 3 phần: phần trình bày, tiếp đến phần phát triển: đây là trung tâm tính kịch của hình thức sonate, những hình tượng tương phản xung đột, sự xuất hiện của các chủ đề của phần trình bày với một dạng khác. Cuối cùng là phần tái hiện: nhắc lại những chủ đề nguyên dạng, trở về điệu tính chủ.
Song song với hình thức này, liên khúc sonate cũng được sử dụng. Haydn là người đầu tiên đã thành công trong việc áp dụng liên khúc sonate và giao hưởng 4 chương, nên người ta coi ông chính là “cha đẻ” của giao hưởng. Liên khúc sonate ra đời cũng làm cho một số thể loại khác phát triển như song tấu, tam tấu, tứ tấu.... và các concerto cho các loại đàn (nhạc cụ độc tấu với dàn nhạc giao hưởng viết bằng liên khúc sonate). Liên khúc sonate là hình thức âm nhạc có 3 - 4 chương, mỗi chương thường có một sắc thái riêng để mô tả một khía cạnh của chủ đề tư tưởng. Với sự xuất hiện của liên khúc sonate, từ đây đã đánh dấu một bước vĩ đại trong khí nhạc, nhạc sỹ có thể đề cập đến những vấn đề mà trước đây nhạc không lời chưa biểu hiện được. Ví dụ Beethoven đã để lại cho hậu thế những kiệt tác bất hủ như bản Appasionata, các bản giao hưởng ưu tú cùng nhiều bản thính phòng khác.
Một điều quan trọng làm cho các tác phẩm của những nhạc sỹ cổ điển Viên trở thành bất tử là do ấn tượng mạnh mẽ của các chủ đề. Khác với âm nhạc thế kỷ 17, các chủ đề thường triền miên vô tận đôi khi quá trừu tượng, thì chủ đề của các nhạc sỹ thành Viên rất trong sáng, giản dị, truyền cảm sâu sắc, dễ đọng lại lâu dài trong trí nhớ của khán thính giả. Dân ca cũng là chất liệu phong phú để thể hiện chủ đề. Trong bản giao hưởng Trống rung cung Mi giáng trưởng của mình, Haydn đã đưa dân ca Khrvat (một vùng Nam Tư giáp Áo) để miêu tả tâm trạng âm thầm ai oán. Từ những chủ đề có hình tượng khái quát như chủ đề “định mệnh” trong Giao hưởng số 5 của Beethoven, đến những chủ đề đơn sơ mộc mạc thôn dã, mang tính cá biệt như chương I trong Giao hưởng số 6 của ông rất dễ hiểu, dễ thấm. Trong xây dựng chủ đề, các nhạc sỹ cổ điển Vienna đã cố tránh trừu tượng, tránh mô tả thiên nhiên một cách sống sượng. Với sự xuất hiện của những chủ đề có cá tính, nên từ đây, trong âm nhạc bắt đầu thịnh hành một thủ pháp soạn nhạc là phát triển “môtip”, phát triển chủ đề mà Haydn, Beethoven rất hay áp dụng.