Chu Văn An
Chu Văn An (? - 1370), tên chữ là Linh Triệt, hiệu là Tiều Ân, người huyện Thanh Trì
hà Nội. Đỗ thái hoûc sinh nhưng không ra làm quan mà ngồi dạy hoûc. Hoûc trò theo hoûc rất đông, nhiều người đỗ đạt cao: Phạm Sư Mạnh, Lê Quát... Vào niên hiệu Khai Thái
(1324-1329) triều Trần Minh Tông ông được vời vào cung vua dạy con vua (Trần Vượng) rồi dạy vua (Hiến Tông) và làm tư nghiệp Quốc Tử giám (như chức hiệu phó đại hoûc bây giờ). Đến triều Trần Dụ Tông (1341-1369) thì xã hội nhiễu nhương lắm. Dụ Tông là tay ăn chơi thích tửu sắc hát xướng. Cận thần là lũ bất tài o bế vua để lộng hành. Dân tình đói khổ. Chu Văn An vốn điềm đạm, ít ham muốn, nhưng lại thẳng thắn ngạch trực (chữ của Hô Nguyên Trừng), nhìn trung thần nghĩa sĩ bị hãm hại, các quan ngự sử chuyên việc can vua giờ chỉ biết ngồi im ăn lộc, (ai có ý định can vua, gia đình phải phát tang làm ma sống rồi mới vào triều) ông đã dâng sớ xin chém bảy gian thần. Sớ thất trảm ấy không còn, ngay đương thời cũng ít người được đoûc nên không biết ông xin chém những ai. Có thể Dụ Tông muốn tránh rắc rối cho triều đình và giữ yên cho Chu Văn An nên đã hủy đi. Dù thế, thất trảm sớ đã gây chấn động dư luận, nói như người xưa: làm kinh động quỷ thần, và trở thành biểu tượng chói sáng của thái độ trí thức trước thời cuộc, của bản lĩnh Chu Văn An. Theo Phan Huy Chú, Chu Văn An có hai tập thơ, một Hán: Tiểu ẩn thi tập một nôm: Tiểu ẩn quốc ngữ thi tập và một bộ giáo trình Tứ thư thuyết ước. Nhưng hiện nay chỉ còn 12 bài chữ Hán, Phan Huy Chú nhận xét: lời thơ trong sáng u nhàn. Đây là thơ Chu Văn An viết khi lui về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng, Chí Linh, Hải Dương. Nói chung thơ các ẩn sỹ thường có phong vị u nhàn. Nhưng với Chu Văn An u nhàn chỉ là ở cái gioûng thơ. Thơ ông chịu ảnh hưởng của đạo Phật như nhiều nhà thơ thời ấy, nhưng chủ yếu hơn, ông rất troûng hiện thực, tin vào sự chiêm nghiệm của mình, không thiên kiến, không theo những nếp nghĩ có sẵn. Thấy cá thì nói cá, thấy mây thì nói mây, chứ không theo thói thường các ẩn sỹ nói mây thì lại tả hạc, nói ao lại tả rồng, trong khi chẳng thấy rồng đâu, hạc đâu:
Cá bơi trên ao cũ, rồng ở chốn nào
Mây đầy núi vắng, hạc chẳng thấy về
(theo bản dịch nghĩa bài Miết Trì)
Chính vì phương pháp suy nghĩ ấy nên khi thơ ông ca ngợi sự lánh đời, chúng ta lắng
nghe vẫn thấy ở phía sau một nỗi niềm không thoát tục. Ông viết Thân cùng mây tẻ quyến luyến hốc núi/ Lòng cùng giếng cổ chẳng hề gợn sóng. Nhưng chính ông cũng lại viết: Tấc lòng chưa lạnh như tro đất. Ông ở ẩn là do tình thế bắt buộc, sau thất trảm sớ làm sao ông còn ở kinh đô được. Ông ở ẩn mang theo một chí nguyện không thành, muốn giúp đời mà không giúp được, chứ đâu phải vì ham thú tiêu dao. Ca ngợi hạc nội mây ngàn cũng chỉ là cách tự an ủi. Hướng lòng về thiên nhiên chỉ để dịu nỗi buồn nhân thế. Nhiều lúc ông không giấu được xót xa:
Công danh trót lạc vào hư ảo
Hồ hải rong chơi bớt nỗi sầu
Đôi lúc ta đoûc được ở ông sự day dứt rất đáng cảm thông:
Nhà ngoûc, lều tranh đều có số
Đục Kinh, trong Vị chẳng cùng xuôi
Nước sông Kinh đục, nước sông Vị trong không thể cùng dòng. Ở ẩn Chu Văn An vẫn
rạch ròi thế sự. Bài thơ về lăng vua Trần Anh Tông, Voûng Thái Lăng càng cho thấy cõi lòng không yên ổn của ông. Chu Văn An không nguôi nỗi khắc khoải; mấy lần ngập ngừng đi rồi lại kì đô trù trừ, hành phục hành. Chúng ta hiểu vì sao khi Trần Nghệ Tông lấy lại ngôi vua từ Dương Nhật Lễ, ông đã chống gậy về triều mừng chúc. Ông lánh thân nhưng lòng vẫn ở giữa đời.