Truyện Kiều của Nguyễn Du

longva0412k

Member
Trăm năm trong cõi người ta Nguyễn Du được gọi là cha truyện Kiều
Đọc xong Anh thấy đăm chiêu
Vì Du đã viết rất nhiều điều sai
Người tốt thì hay bị die...


Đầu lòng 2 ả tố nga
Thúy Kiều là chị hay cười ha ha
Thúy Vân bản tính thối tha
Luôn luôn đấu đá muốn là chị cơ
Thúy Kiều mệt mỏi bơ phờ
Nên đành nhẫn nhịn : " Thôi ờ tao thua "
Vân sướng : " Tao thắng làm vua
Còn mày bại trận làm cua trong nồi "
Thúy Kiều tức giận : " Đồ tồi"
Thúy Vân vừa cú vừa cay
Nhặt dao , lao tới , chém bay cái đầu
Kiều ta còn mỗi đầu lâu
Mất thân , đành kiếm xà mâu cắm vào
Thúy Vân sợ quá thành đao
Cha mẹ thấy thế gửi vào lầu xanh.

Bán thân mới được 1 tuần
Vân kiếm được kẻ chuộc thân cho mình
Chàng tên là Mã Giám Sinh
Xuất thân từ chốn võ lâm truyền kì
Thanh niên trai tráng đôi mươi

Nhiều tài lắm của là người đẹp trai
Cò kè bớt 1 thêm 2
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài 4 trăm
Thúy Vân tuổi mới 15
Là gái sung sức ăn nằm rất phê
Kiệu to đến rước Vân về
Nghĩ tới khoái lạc sướng tê cả người
Quản gia đón kiệu tươi cười
Thân lùn trán hói là người rất thâm
Quản gia tên gọi Thúc Sinh
Đi cùng với vợ là Đình Hoạn Thư
Hoạn Thư yểu điệu hiền từ
Do được giáo dục bởi sư trong đền

Thúc Sinh cầm quả đao cong
Lưỡi dao cắm phập vào trong mình chàng
Giám Sinh chưa kịp hoang mang
Thì đã tắt thở hồn sang xứ trời
Vân đang rũ rượi tơi bời
Thì bị cả lũ vào chơi hội đồng

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Kiếp người lưu lạc bao giờ mới thôi
Phận sao phận bạc như vôi
Làm cho nước chảy hoa trôi lỡ làng
Ðang khi Vân thấy hoang mang
Bỗng đâu xuất hiện 1 chàng tiều phu
Cao to, mạnh khoẻ, lù đù
Chàng ta lắp bắp : " Tôi Cù Sở Khanh "
Vội vàng xé yếm lụa xanh
Sở Khanh bản tính thật thà
Chỉ biết bất động đứng xa mà nhìn

Sơ Khanh mệt ngủ li bì
Thúy Vân chộm ngựa vội phi về nhà
Chém cha cái số đào hoa
Sở Khanh mệt mỏi tơi bời
Bị nung dưới ánh mặt trời chói chang
Thúc Sinh miệng quát oang oang
"Làm bồ tao trốn, tao phang chết mày"
Tay lăm lăm quả dao phay
Tấm thân mạnh khoẻ từ nay thôi rồi
Thúc Sinh xỉ vả xong rồi bỏ đi.

Thúy Vân phi ngựa vèo vèo
Bất ngờ sập bẫy bị treo lộn đầu
Xung quanh 1 lũ đầu trâu
Thấy Vân ngon quá liền bâu vào nàng
Bỗng nghe thấy 1 tiếng choang
1 thanh bảo kiếm lẹ làng rút ra
Kiếm khách tuy đứng từ xa
Kiếm khí vẫn khiến người ta rùng minh
" Bọn bây sao thật đáng khinh
Hiếp đáp phụ nữ tao binh chúng mày "
Côn đồ lập tức bao vây
Chiều thu gió thổi cành cây là là
Chớp lên 1 ánh sao sa
Lưu manh cả lũ thành ma không đầu
Thúy Vân cảm cái ơn sâu
" Kiếp này xin nguyện theo hầu ân công "
" Giúp người chẳng để báo công
Tiểu thư bảo trọng ta không dám phiền
Ngân lượng còn 1 đôi viên
Xin nhận lộ phí có tiền ăn chơi "
Đội trời đạp đất ở đời
Họ Từ tên Hải vốn người xì tin
Từ nhỏ luyện đồng tử công
Nghiêm cấm sắc dục nếu không chết liền
Thúy Vân lập tức giả điên
Lột đồ khóc lóc luyên thuyên không ngừng
Chàng Từ gặp chuyện chẳng đừng
Nên bất đắc dĩ phải dừng lại coi
Thúy Vân là gái làng chơi
Trổ hết bản lĩnh để mơi chàng Từ
Đồng nam dương khí quá dư
Gặp siêu dâm nữ đến sư cũng tèo

Thời gian lặng lẽ trôi mau
Từ Hải bỗng thấy đau đầu nhức chân
Thế rồi kinh mạch toàn thân
Cùng nhau đứt hết , muôn phần xót xa
Trở thành phế vật thật là đáng thương
Ân hận phẫn uất bi thương
Từ Hải chết đứng bên đường tội thay
Thúy Vân chẳng chút mảy may
Hớp đống ngân lượng đi ngay 1 lèo

Thúy Vân sắp được về nhà
Tâm trạng vui vẻ hát ca dọc đường
Trải đầu vuốt tóc soi gương
Chợt thấy hiểm họa khôn lường thất kinh
Phía sau đuổi tới - Thúc Sinh
Sông chắn trước mặt , đinh ninh rồi đời
Vân ta lại chẳng biết bơi
Tiền Đường Giang sẽ là nơi chôn vùi
Thúc Sinh khấp khởi mừng vui
Trước sau hết lối thật xui cho mày
Thúy Vân uất hận dâng đầy
Quyết tâm cùng chết , bớt cay đôi phần
Nghĩ xong lập tức chuyển thân
Quay người lễ phép nhún chân vái chào
Thúc Sinh tự mãn quá cao
Không chút phòng bị mà lao tới liền
Thúy Vân lập tức bước xiên
Kéo theo thằng Thúc rơi liền xuống sông
Thúc Sinh béo ịch nặng mông
Chìm luôn xuống đáy con sông Tiền Đường

Thanh Minh trong tiết tháng ba
Kim Trọng thăm ruộng đi ra kênh đào
Họ Kim xuất xứ từ Lào
Mắc bệnh từ bé đao đao đần đần
Tai lòi , mắt chột , thọt chân
Xứng danh " Phế vật mười phân vẹn mười "
Thấy trên sông có bóng người
Là 1 mỹ nữ xinh tươi hồng hào
Họ Kim lập tức vớt vào
Sắc đẹp khiến hắn nôn nao bần thần
Cô gái đó là Thúy Vân
Nàng được Kim Trọng ân cần chăm nom

Qua cơn thập tử nhất sanh
Tâm tình chuyển biến Vân thành gái ngoan
Cùng Kim kết nghĩa phượng loanh
Thế rồi 9 tháng 10 ngày
Thúy Vân sinh được 1 bày thiếu nhi
Trải qua bao truyện li kì
Cuối cùng cũng có hép py en đình
 

Vampire

Member
Lucifer said:
uh, vậy anh có thể trình bày theo thể thơ lục bát cho dễ theo dõi ko ạ
"Oh Lucifer, please let me go beyond god's love
And run my fingers through her hair Esmeralda"


Này, đừng có đố nhau khó như thế chứ. Anh đã dốt văn thì chớ, lại còn bắt làm thơ lục bát với chả lục xoong B-)

Tiếp nào:

Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Cảo thơm lần giở trước đèn,
Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh.

"Bỉ sắc tư phong" có nghĩa là cái kia kém thì cái này hơn, được cái này thì hỏng cái kia, không ai được vẹn toàn cả.

"Má hồng" chỉ người đàn bà, con gái đẹp. Ngoài ra trong Truyện Kiều còn sử dụng "Má đào" với nghĩa tương tự.

"Cảo thơm" từ chữ "phương cảo", có nghĩa là pho sách thơm, pho sách hay.

"Phong tình cổ lục" là pho sách cũ, chép chuyện phong tình, tức là chuyện trai gái yêu thương nhau.

"Sử xanh" là từ chữ "thanh sử". Ngày xưa khi chưa chế tạo ra giấy thì người ta lấy các thanh tre xanh đem nướng cho khô mà vẫn giữ được màu xanh của cật, rồi dùng bút đao (bút sắc nhọn như dao) mà ghi chép sử nên gọi là sử xanh. Thơ Lưu Trường Khanh có câu: "Công danh mãn thanh sử" = công danh đầy sử xanh.

(còn tiếp)
 

Vampire

Member
Rằng: Năm Gia-tĩnh triều Minh,
Bốn phương phẳng lặng hai kinh chữ vàng.
Có nhà viên ngoại họ Vương,
Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung.
Một trai con thứ rốt lòng,
Vương Quan là chữ nối dòng nho gia.

"Hai kinh vững vàng" hai kinh ở đây là Bắc Kinh và Nam Kinh. Từ vững vàng ở đây chỉ cái vững vàng, phẳng lặng của chế độ phong kiến nhưng bên trong thì mục nát, đầy mâu thuẫn nổ ra.

"Viên ngoại" là một chức quan nhỏ được đặt ra từ thời lục triều. Viên ngoại có thực chức nhưng là ngoại ngạch, về sau có thể bỏ tiền ra mua được. Về sau viên ngoại dần dần trở thành một hư hàm dùng để gọi những nhà giàu có (giống như từ bá hộ, cụ bá của ta ngày xưa).

"Gia tư": của cải trong nhà.

"Nghỉ" đại từ nhân xưng ngôi thứ ba (dùng cho cả nam, lẫn nữ) thường dùng để chỉ những người ngang hàng, hoặc dưới hàng (VD: ông ta, bà ta, anh ta, chị ta, nó, hắn...)

"Rốt": cuối cùng, sau chót.

"Chữ" có nghĩa là tên chữ, tên chính khác với tên mụ, tên thường gọi ở nhà. Tác giả muốn nói đến tục ngày xưa hay đặt một tên chữ và có một tên nôm để gọi.

(còn tiếp)
 

Vampire

Member
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.

Ả: tiếng gọi chung cho đàn bà, con gái có nghĩa như là chị

Tố Nga: chỉ người con gái đẹp. Bài "Nguyệt phú" của Tạ Trang có lời chú: "Thường Nga thiết dược bôn nguyệt, nguyệt sắc bạch, cố vân Tố Nga", có nghĩa là Thường Nga lấy trộm thuốc tiên, thoát lên cung trăng, mặt trăng sắc trắng nên gọi là Tố Nga (tố: sắc trắng, nga: người con gái đẹp)

Cốt cách: chỉ dáng điệu, tầm vóc. "Mai cốt cách" là nói tầm vóc dong dỏng cao, thanh thanh như cành mai.

Tuyết tinh thần: nói cái vẻ trong trắng như tuyết

Khác vời: khác với những người mà tầm mắt mình đã nhìn thấy. Vời: xa quá tầm nhìn của con mắt.

Khuôn trăng: chỉ khuôn mặt tròn, đầy đặn, sáng sủa như mặt trăng.

Nét ngài: con ngài hay con bướm tằm. Nguyễn Du viết "nét ngài" là từ chữ "tàm my" hay "ngọa tàm my" (mày tằm nằm) = nét lông mày cong, đậm mà thanh. Chỉ lông mày đẹp nói chung.

Nở nang: có nghĩa là tươi tắn. Cả câu thơ tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân.

(còn tiếp)
 

Vampire

Member
51. Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.

Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.

55. Nao nao dòng nước uốn quanh,
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.

Sè sè nấm đất bên đường,
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.

Rằng: Sao trong tiết Thanh minh,
60. Mà đây hương khói vắng tanh thế này?

-----------------------------------------

52. Thơ thẩn: vẻ nghĩ ngợi vẩn vơ, không để ý vào việc mình làm. Dan tay: dắt tay nhau. Xem câu 2284.

53. Bước dần: nhẹ bước từ từ. Tiểu khê: khe nước nhỏ.

54. Lần xem: nhìn xem mà có ý thưởng ngoạn, đưa mắt nhìn cảnh vật một cách nhàn nhã. Có bề: có vẻ. Thanh thanh: hình dung cái vẻ xanh tươi, xinh đẹp.

55. Nao nao: thế dòng nước nghiêng nghiêng, hơi dốc lượn theo đường cong. Xem câu 492.

56. Ghềnh: chỗ đất dá nhô ra mặt nước, nước xoáy mạnh thành vũng sâu.

57. Sè sè: nói dáng thấp, gần sát mặt đất.

58. Dàu dàu: có vẻ tàn héo, không được tươi. Xem các câu 784, 1002, 1054, - 656, 762, 2794.
 

Vampire

Member
61. Vương Quan mới dẫn gần xa:
Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi.

Nổi danh tài sắc một thì,
Xôn xao ngoài cửa hiếm gì yến anh.

65. Kiếp hồng nhan có mong manh,
Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương.

Có người khách ở viễn phương,
Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi.

Thuyền tình vừa ghé tới nơi,
70. Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ!

----------------------------------------
61. Dẫn: thuật lại, nhắc lại từ đầu. Xem các câu 1170, 1377, 2318, 2380. Gần xa: đây ý nói cả câu chuyện từ đầu (xa) cho đến cuối (gần). Xem các câu 1081, 1251, 1441, 1802, 2116, 2487, 2863, 2868, 3028.

62. Ca nhi: người phụ nữ làm nghề ca hát ở các thanh lâu ngày xưa.

64. Yến anh: đây chỉ khách làng chơi tấp nập tìm đến. Xem chú 45.

65. Hồng nhan: chỉ người đàn bà đẹp. Xem chú 6.

66. Cành thiên hương: chỉ người con gái đẹp. Thiên hương là hương trời. Xem chú 825. Ý cả câu: tuổi đang độ nửa chừng xuân, thì người đẹp bỗng chết. Thoát: chợt, bỗng. Xem các câu 82, 187...

67. Viễn phương: phương xa.

68. Xa nghe: ở nơi xa mà nghe tiếng.

69. Thuyền tình: Bùi Kỷ chú "...Đường thi: Nhất phiến tình chu dĩ đáo ngạn, bình trầm hoa chiết dĩ đa thời = Một chiếc thuyền tình mới tới bờ, cái bình đã chìm, cành hoa đã gãy tự bao giờ"

70. Trâm gãy bình rơi: chỉ người đẹp chết trẻ như việc sắp thành mà nửa chừng bị hỏng. Thơ Bạch Cư Dị có câu: Bình trầm trâm triết chi lại hà, tự thiếp kim triêu dữ quân biệt = bình chìm trâm gãy biết làm sao được, cũng như sáng hôm nay thiếp cùng chàng từ biệt nhau.
 

Vampire

Member
21. Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.

Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.

25. Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.

Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một tài đành họa hai.

Thông minh vốn sẵn tính trời,
30. Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.

--------------------------------------------------
21. Hoa cười ngọc thốt: miệng cười tươi như hoa, giọng nói trong như tiếng ngọc.
Thốt: nói. Tục ngữ có: Biết thì thưa thốt.
Đoan trang: đúng mực, trang nghiêm.

22. Ý cả câu: màu xanh đen, uyển chuyển của mái tóc đến mây cũng phải thua, nước da trắng mát đến tuyết cũng phải nhường không dám sánh.

25. Thu thuỷ: nước mùa thu, ý nói mắt sáng trong như mặt nước mùa thu.
Xuân sơn: núi mùa xuân, ý nói lông mày nhẹ thanh, tươi đẹp như vẻ núi mùa xuân. Thơ của Viên Giác: Vọng hạnh mâu ngưng thu thuỷ = Trông con mắt đáng yêu như đọng nước mùa thu. Sách Sơn xuyên huân của Quách Hy có chép: Xuân sơn đạm dả nhi như tiếu = Núi mùa xuân như mặt nước nhấp nhô giỡn sóng mà như tiếng cười. Truyện Kiều còn có: nét thu (348), thu ba (1323), dòng thu (2533).

27. Nghiêng nước nghiêng thành: đẹp đến nỗi làm người ta say mê, bỏ cả nhiệm vụ, để mất cả đất nước. Đây là chữ cực tả vẻ đẹp của phụ nữ. Lý Diên Niên có bài ca: Bắc phương hữu gian nhân, tuyệt thế nhi độc lập. Nhất cố khuynh nhân thành, tái cố khuynh nhân quốc. Ninh bất tri khuynh thành dư khuynh quốc, giai nhân nan tái đắc = Phương Bắc có người con gái đẹp, đẹp vô song mà người đó còn đứng một mình. (Người đó) ngoảnh lại nhìn một cái xiêu thành người, ngoảnh lại nhìn cái nữa nghiêng nước người. Thà không biết việc nghiêng thành và nghiêng nước, (vì) người đẹp đó khó được gặp lại. Xem các câu 258, 1301.

28. Ý cả câu: Về sắc thì đành chịu chỉ có một mình Kiều, về tài thì may ra còn có người thứ hai.

29. Tính trời: tính trời phú cho. Xem các câu 150, 494.

30. Pha: cho thêm vào. Thi và hoạ chỉ là công việc phụ, biết qua thêm thắt vào chứ không phải là sở trường của mình.
Đủ mùi ca ngâm: biết đủ mọi thể thức âm điệu về ca ngâm.
 

Vampire

Member
31. Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.

Khúc nhà tay lựa nên xoang,
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân.

35. Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.

Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

Ngày xuân con én đưa thoi,
40. Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.


--------------------------------------------------------

31. Cung thương: hai âm đầu trong số năm âm (ngũ âm) theo cung bậc nhạc cổ Trung Quốc là cung, thương, giốc, chuỷ, vũ. Làu thông cung bậc ngũ âm tức là nói tinh thông về âm nhạc. Xem câu 472.

32. Hồ cầm: ta thường hiểu là một loại đàn tỳ bà. Theo Văn hiến thông khảo và Hoàng triều văn hiến thông khảo thì hồ cầm, cầm trăng (467), cầm nguyệt (640) nói trong truyện Kiều là cùng một loại đàn. Tên gọi Hồ cầm bắt nguồn từ việc Chiêu Quân thời Hán Đế đánh đàn từ biệt ở biên ải trước khi bị đem sang cống cho nhà Hồ (tức quân Hung Nô).
Một trương: một cây (đàn). Sách có câu: "Cầm nhất trương, kỳ nhất cục": cầm một cây, cờ một cuộc.

33. Khúc nhà: khúc nhạc do riêng mình soạn ra, dùng trong nhà.
Xoang: điệu đàn, ăn với chữ khúc ở đầu câu.

34. Bạc mệnh: tên bản nhạc do Thuý Kiều soạn ra. Bạc mệnh nghĩa là số mệnh bạc bẽo, mỏng manh. Xem các câu 84, 108, 416, 1906, 2575, 2578, mệnh bạc (738, 1910), phận bạc ((753).
Não nhân: làm sầu não người ta, hay làm người ta não lòng.
Não: buồn rầu ở trong lòng. Xem các câu 236, 314, 567.

35. Phong lưu: phong thái nhàn nhã, lịch sự.
Hồng quần: chỉ đàn bà con gái nói chung, vì tục xưa ở Trung Quốc phụ nữ nhà sang trọng thường mặc quần điều. Xem các câu 2157, 2587, 2644.

36. Xuân xanh: tuổi xuân, tức tuổi trẻ.
Tới tuần: tới độ, tới kì.
Tuần: thời kì, lần, lượt. Xem các câu 169, 1199, 1555 và các chú 251, 567, 627, 893.
Cập kê: đến tuổi cài trâm, tức là nói đến tuổi gả chồng.
Kê: là cái trâm. Lễ ký có câu Nữ tử thập hữu ngũ niên nhi kê = Con gái mười lăm tuổi thì cài trâm.

38. Tường đông: tường nhà phía đông, cũng tức là nói tường nhà hàng xóm, nhà có con gái đẹp. Phú Tống Ngọc: Thiên hạ chi giai nhân, mạc nhược Sở quốc. Sở quốc chi lệ giả, mạc nhược thần lý. Thần lý chi mỹ giả, mạc nhược thần đông gia chi tử. Nhiên thử nữ đăng tường, khuy thần tam niên, chi kim vị hứa giả = Người đẹp trong thiên hạ, không đâu bằng người nước Sở. Người đẹp (lệ giả) trong nước Sở, không đâu bằng người làng thần. Người đẹp (mỹ giả) trong làng thần, không ai bằng người con gái nhà phía đông (tức nhà hàng xóm). Thế nhưng người con gái đó trèo tường nhìn trộm thần đã ba năm rồi, mà đến nay thần vẫn chưa bằng lòng. Xem các câu 284, 1093.
Ong bướm: cũng nói bướm ong, chỉ hạng con trai ve vãn con gái. Xem các câu 938, 1025, 1229, 1238, 1586, 3008.

39. Câu này tả cảnh mùa xuân có chim én bay đi bay lại như con thoi đưa, mà ngụ ý tiếc ngày xuân qua quá nhanh.

40. Thiều quang: ánh sáng đẹp, tức nói ánh sáng ngày xuân. Ý cả câu: chín chục ánh sáng ngày xuân mà nay đã ngoài sáu mươi, tức là đã qua tháng giêng, tháng hai và đã bước sang tháng ba.
 

Vampire

Member
41. Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh.

45. Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.

Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm.

Ngổn ngang gò đống kéo lên,
50. Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.

--------------------------------------------
41 - 42: Thơ chữ Hán của Nguyễn Du: Du nhân vô hạn cảm. Phương thảo biến thiên nhai = Khách qua đường hoài cảm vô hạn. Cỏ non thơm tận chân trời (Độ phú nông giang cảm tác). Thơ cổ: Phương thảo liên thiên bích. Lê chi sổ điểm hoa = Cỏ thơm xanh biếc liền trời. Cành lê điểm vài bông hoa.

43. Thanh minh: tiết vào đầu tháng ba, mùa xuân khí trời mát mẻ, trong trẻo, người ta đi tảo mộ, tức là đi viếng và quét tước, sửa sang lại phần mộ của người thân. Xem câu 59.

44. Đạp thanh: giẫm lên cỏ xanh. Tiết Thanh minh, đi chơi xuân ở chốn đồng nội, giẫm lên cỏ xanh nên gọi là đạp thanh.

45. Yến anh: chim én, chim oanh về mùa xuân thường ríu rít bay từng đàn. Đây là ví cảnh từng đoàn người nhộn nhịp đi chơi xuân. Xem các câu 944, 1180 - 64, 514, 1098.

46. Dập dìu: đi lại đông đảo, nhiều người rủ nhau cùng đi. Xem các câu 873, 944, 1203, 1281.
Tài tử giai nhân: trai tài gái sắc. Xem câu 1457, 2842.

48. Ngựa xe như nước: ngựa xe qua lại nối tiếp nhau, hết lớp này đến lớp khác như nước chảy.
Áo quần như nêm: nói người đi lại đông đúc, chật như nêm cối. Xem các câu 988. Các bản Tiên điền, Phạm Kim Chi đều để "như nêm".

49. Ngổn ngang: nhiều mà có ý bề bộn, không có hàng lối. Xem các câu 183, 684, 2246. Trong Ngọc Kiều Lê có câu: Chị em dan díu chuyện trò ngổn ngang.
Gò đống: đây chỉ những mồ mả, cái to, cái nhỏ. Tục ngữ: Gò mả đống mồ.

50. Vàng vó: thứ đồ mã, giả những thoi vàng hình khối chữ nhật dùng để rắc trong lúc đi đưa ma hoặc đi tảo mộ. Kiều Oánh Mậu chú: Người làng Thịnh Liệt, Hà Nội làm thứ vàng cho người chết, tục gọi là vàng vó.
Tiền giấy: chỉ loại hàng mã gồm những tờ giấy có in hình đồng tiền kẽm hay đồng thời trước, dùng trong việc cúng tế..., xong lễ đốt đi cho người ở dưới âm phủ dùng. Đây đều là những tục cổ, mê tín.
 

Tra cứu điểm thi

Phần mềm mới

Quảng cáo

11223344550983550000
Top